Thánh Tử Đạo Việt Nam


Vài Dòng Lịch Sử về Các Thánh Tử Đạo
và Giáo Hội Việt Nam

Trong sắc lệnh tôn phong các vị Tử Đạo Việt Nam năm 1900, ĐTC Lêô XIII đã tuyên bố các Ngài là "đội hùng binh" thuộc mọi giai cấp xã hội, đã can trường chấp nhận chịu mọi cực hình, không kém các vị Tử Đạo thời sơ khai. Lời so sánh trên đây giữa Giáo Hội tại Việt Nam và Giáo Hội Rôma không những chỉ đúng khi nói tới lòng quả cảm của các vị Tử Đạo, mà còn đúng cả về sự thực qua qúa trình lịch sử của cả hai dân tộc. Cũng như Giáo Hội tại Rôma, chỉ ít khi năm sau hai vị Tông Đồ Cả Phêrô và Phaolô gieo rắc hạt giống Đức Tin, đã bị bách hại suốt 300 năm, Giáo Hội tại Việt Nam vừa nhận hạt giống Đức Tin vào năm 1544, đã bị những cuộc cấm đạo đẫm máu bọt nghẹt suốt ba thế kỷ. Có thể chia qua trình lịch sử Giáo Hội Việt Nam làm 4 thời kỳ chính :

Thời Kỳ Khai Nguyên (1533-1659)
Thời Thành Lập (1659-1888)
Thời Phát Triển (1888-1933)
Thời Trưởng Thành (1933-1988)


1. Thời Kỳ Khai Nguyên (1533-1659)

Cuối thế kỷ XV, các nhà thám hiểm đã đặt chân tới những miền xa xăm trước đây chưa ai biết đến. Họ đi vòng quanh thế giới, theo sau là các nhà buôn với những thương thuyền hùng hậu nhất thời đó của Tây Ban Nha và Hoà Lan. Các ông chủ mặt biển này đã vượt trùng dương sang tận vùng Đông Nam Á để buôn bán hàng hoá và thương mại. Trong điều kiện giao thông này đã giúp các Thừa Sai Công Giáo thực hiện được mộng ước của họ là mang Tin Mừng đến tận chân trời xa xăm và vào Việt Nam, giữa thời kÿ Đất Nước đang bị phân hoá vì nội chiến. Đầu thế kỷ XVI Nhà Lê bắt đầu suy tàn với lớp gian thần và hôn quân như vua Lê Vi Mục và vua Lê Tương Dực. Năm 1527, lấy danh nghĩa phò vua Lê Chiêu Tông, quyền thần Mạc Đăng Dung dẹp nội loạn trong Triều rồi cướp ngôi nhà Lê, lập ra Nhà Mạc. Bấy giờ ông Nguyễn Kim (con cựu thần Nguyễn Hoàng Dụ) đang ở biên trấn, ông chiêu mộ quân binh cùng các chiêu thần nhà Lê đứng lên diệt Mạc dựng lại Nhà Lê. Không bao lâu, Nguyễn Kim lấy lại được đất Thanh Hoá trở vào Thuận Hoá, dựng lại nhà Lê. Đất nước lại chia đôi thành Nam, Bắc Triều. Họ Mạc hùng cứ từ Ninh Bình trở ra Bắc lại được Nhà Minh Trung Hoa che chở để phân hoá Đại Việt. Ít lâu sau, tướng Nguyễn Kim bị tên hàng tướng của nhà Mạc đầu độc chết, con rể ông là Trịnh Kiểm thay thế tiếp tục phò Lê, Bắc tiến. Năm 1583, Trịnh Kiểm lấy lại Thăng Long rước vua Lê về kinh đô lên ngôi chính vị. Tuy nhiên , họ Trịnh từ lâu đã có ý cướp ngôi nhà Lê. Để trừ hậu hoạ, Trịnh Kiểm mưu giết Nguyễn Uông là con Nguyễn Kim ý muốn cướp ngôi đã rõ, họ Trịnh còn cho người đến gặp Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm xin vấn kế. Trạng Trình không nói gì mà chỉ đọc một câu dụ ngôn ý khuyên Trịnh nên dựa vào cái hư vị vủa Nhà Lê mà hưởng công danh phú quý đời đời. Trịnh nghe theo nên chỉ xưng Vương, buộc Vua Lê phải phong Trịnh làm Thượng Phu, Tổng Quốc Chính, nắm trọn quyền bính trong tay, lập Phủ Chúa tức Phủ Liêu với nghi vệ của bậc Đại Vương còn Vua Lê chỉ còn là hư vị, chỉ được hưởng lương bổng do Chúa Trịnh quy định. Từ đó, nước Đại Việt có Vua lại có Chúa. Kế nghiệp Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng lên ngôi Chúa, quyền huynh thiên hạ, dồn họ Mạc lên Cao Bằng. Năm 1592, bắt được Mạc Hậu Hợp đem về Thăng Long chém đầu.

Về họ Nguyễn thì sau khi anh là Nguyễn Uông bị giết, Nguyễn Hoàng dự đoán trước sau ông cũng bị hại, ông nhờ chị là Ngọc Bảo, vợ Trịnh Kiểm xin cho em vào trấn thủ Thuận Hoá, lại ngầm sai người đến vấn kế Trạng Trình thì Trạng chỉ vào hòn non bộ, nói: "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (một giải Hoành Sơn dung thân muôn đời). Nguyễn Hoàng được Vua Lê thuận cho vào phương Nam trấn thủ miền địa đầu của Đất Nước, ông về Thanh Hoá đem theo các thủ hạ thântí tín, đồng hương cà các đồng tộc vào Quảng Trị, lập Dinh ở Ái Tử sau gọi là Chính Dinh, thủ phủ của phương Nam.

Giai đoạn đầu, Nguyễn Hoàng vẫn giữ danh vị Trấn Thủ, được Vua Lê phong tước Công, ông củng cố Thuận Quảng, xây thành đắp luỹ sau ra mắt công khai chống Trịnh. Cuộc nội chiến Nam Bắc bùng nổ vào năm 1627, kéo dài 42 năm qua bảy trận đẫm máu, bất phân thắng bại, hai bên hưu chiến lấy sông Gianh làm giới hạn phân chia Nam Bắc. Mãi sau này vào đời Võ Vương Chúa Nguyễn mới xưng Vương lập ra triều chế riêng biệt song vẫn tôn Vua Lê và vẫn giữ quốc hiệu là Đại Việt. Từ đó, miền Bắc từ Quảng Bình trở ra gọi là Bắc Hà hay xứ Đàng Ngoài, từ Thuận Quảng trở vào Nam gọi là Nam Hà hay là Xứ Đàng Trong.

Nhà Nguyễn làm Chúa phương Nam đến đời Nguyễn Phúc Dương chạy vào Gia Định, cả họ bị tàn sát, Nam Hà trọn vẹn rơi vào tay Tây Sơn. Chỉ còn lại một hoàng hôn duy nhất sống sót là Nguyễn Phúc Ánh lúc đó 15 tuổi, nhờ các Linh Mục Thừa Sai cho trốn ở trong nhà. Sau đó, Nguyễn Phúc Ánh gặp Giám Mục Bá Đa Lộc ở Hà Tiên, ông lên ngôi kế nghiệp tiên Vương năm 17 tuổi vào lúc Nam Hà đã mất trọn vào tay Tây Sơn.

Năm 1786, Nguyễn Huệ ra Bắc diệt Trịnh phù Lê; hai năm sau, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế lấy hiệu là Quang Trung, đem quân Bắc Tiến đánh quân Thanh xâm lăng. Quang Trung toàn thắng vào ngày mồng 5 Tết Kỷ Dậu 1789, Nhà Lê cáo chung sau 360 năm trị vì (1428-1788).

Giáo Hội Việt Nam cũng trầm luân trong vận nước trôi nổi bởi thảm kịch Nam Bắc phân tranh lại thêm nạn Bách Đạo mỗi ngày thêm khốc liệt.

TỈNH BẮC HÀ

Không rõ năm nào hạt giống Đức Tin được gieo mầm trên đất nước Việt Nam, ngoại trừ niên đại lịch sử 1533, sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn ghi lại cho biết, giáo sĩ "Tây Dương" I-Ni-Khu đến giảng Đạo tại làng Ninh Cường, trấn Sơn Nam (nay thuộc Giáo Phận Bùi Chu). Năm 1578, Chính Sử mới thấy ghi, nhà Mạc tại Bắc Hà cho người sang tận Macao mời người Bồ Đào Nha qua cùng với các Thừa Sai. Nhưng Macao thiếu nhân sự, phải giới thiệu với Manila, xin gửi 4 Thừa Sai sang Việt Nam. Một trận bão lớn đã thổi các Ngài vào Hải Nam, sau cùng chỉ còn vị linh mục duy nhất là cha Ruitz vào giảng đạo năm 1585.

Ba năm sau, Đức Giám Mục Macao mới cử 2 Thừa Sai là Alfonso da Costa và Juan Gonsalves qua kinh đô Nhà Lê (Lam Kinh) lúc ấy còn tạm đặt ở Thanh Hoá do lời mời của Công Chúa Chiêm, bấy giờ đang thay em còn nhỏ làm Nhiếp Chính. Năm 1590, mặc dù cả Triều Đình, Hoàng Thái Hậu và Vua Trang Tôn phản đối, Công Chúa Chiêm vẫn xin rửa tội theo Đạo, tục gọi là Bà Chúa Chèm tức Mai Hoa Công Chúa, cùng với trên 70 cung nhân và nữ tÿ vào Lam Kinh nơi xuất phát Nhà Lê, lập Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm. Đây là Dòng Nữ Tu đầu tiên ở Việt Nam, nhưng chỉ 3 năm sau các Giáo Sĩ lại bị Vua Lê trục xuất.

Năm 1626, Trịnh Tráng lại mời các mời các Thừa Sai vào. Lần này Giáo Sĩ Đắc Lộ và Marquez được gửi qua. Dân Bắc Hà theo đạo rất đông, trong 3 năm đã có 6.700 tín hữu. Chị của chúa Trịnh và 17 người trong phủ Chúa cũng xin rửa tội. Chúa xây luôn nhà thờ cho các vị Thừa Sai. Nhưng năm 1629, Trịnh Tráng thất trận, ông đổi ý, hạ lệnh trục xuất 2 Giáo Sĩ. Các ngài ra đi để lạ 3 Thầy Giảng điều khiển hơn 7.000 giáo dân. Nhưng năm sau, các Thừa Sai lại được vào tiếp tục công việc truyền giáo. Tính đến năm 1630, Bắc Hà đã có 414 nhà thờ với 350.000 giáo dân.


TỈNH NAM HÀ

Năm 1550, linh mục Thừa Sai Gaspar de Santa Cruz lập tu viện Đa Minh tại Malacca để rồi năm 1558 tu viện này gửi 2 Thừa Sai là Lopez và Azevedo qua Chân Lạp giảng đạo, được 10 năm thì bị trục xuất.
Tới năm 1580 tu viện lại phái 2 cha Gregoire de la Motte và Luis de Fonseca sang. Những năm 1586, Chiêm Thành chiến thắng Nam Hà, bắt luôn 2 Thừa Sai về xử tử. Dù vậy, dòng Đa Minh tại Manila còn cố gắng 4 lần nữa gửi Giáo Sĩ vào Nam Hà, nhưng tất cả đều thất bại. Công việc truyền giáo tại đây chỉ đạt được căn bản vững chắc khi dòng Tên vào miền đất Chúa Nguyễn.

Năm 1615 dòng Tên bị trục xuất khỏi Nhật. Các vịn này trở lại cứ điểm Macao và được phái qua Nam Hà. Linh Mục Buzomi và Carvallo vào cửa Hàn và rửa tội cho 10 người tại Quảng Nam nhân dịp lễ Phục Sinh năm đó. Cuối năm, các ngài đã cất 2 nhà thờ tại Hải Phố và tại Quảng Nam cho trên 300 giáo dân đọc kinh thờ phượng.

Năm 1617, quan trấn Qui Nhơn có thiện cảm với Công Giáo, ông mời các Thừa Sai tới, xây cất nhà thờ cho giáo dân. Số tân tòng tăng gấp trăm và gồm đủ thành phần từ sư sãi đến trí thức, quan lại và bình dân. Người nổi tiếng nhất là bà Minh Đức Vương Thái Phi, một vương phi rất sùng Phật, Bà theo Đạo và trở thành một nhà truyền giáo rất đắc lực. Tới năm 1665, Nam Hà đã có trên 50.000 giáo dân. Còn cha Đắc Lộ được mời vào Nam Hà chưa đầy 1 năm, đã bị quan trấn Quảng Nam trục xuất năm 1640. Sau 4 lần lén vào Nam Hà, Ngài đã phải gạt nước mắt vĩnh biệt giáo dân về Rôma năm 1645. Tại đây Ngài đã trình lên Đức Giáo Hoàng Innocentê X về nhu cầu cần thiết thành lập Hàng Giáo Phẩm tại Việt Nam. Chương trình này đã được Đức Giáo Hoàng Alexandro VII thực hiện ngày 29-7-1658, mở đầu cho kỷ nguyên mới của lịch sử truyền giáo tại Việt Nam.

2. Thời Thành Lập (1659-1888)

Năm 1659, Đức Thánh Cha Alexandro thiết lập giáo phận Đàng Trong (Nam Hà) và giáo phận Đàng Ngoài (Bắc Hà), trao cho hai Đức Cha Francoise Pallu và Lambert de la Motte. Cả hai vị tìm cách vào Việt Nam và tổ chức cơ sở căn bản như họp Công Đồng, lập Dòng Mến Thánh Giá, Chủng Viện, và đặc biệt dồn hết tâm lực vào việc đào tạo Linh Mục Việt Nam.

Cả hai giáo phận mới thành lập phải đương đầu với cơn bách hại khủng khiếp kéo dài cho tới năm 1888. Cuộc bắt đạo lúc đầu có vẻ thất thời tuÿ theo hứng của Vua Chúa. Nhưng tới khi Vua Gia Long nằm xuống năm 1820, các vua triều Nguyễn là Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức, vì tinh thần bài ngoại và lầm tưởng theo Đạo là bỏ ông bà tổ tiên, đã ra lệnh trên toàn quốc triệt hạ thánh đường, xử tử các Giáo Sĩ và tất cả những giáo dân nào bất tuân lệnh nhà Vua. Những hành động này đã đưa tới việc liên quân Pháp và Tây Ban Nha can thiệp vào nội bộ Việt Nam, ép buộc vua Tự Đức ký hoà ước nhận quyền bảo hộ của Pháp, đồng thời chấm dứt việc sát hại người Công giáo năm 1883.

Nhưng trước khi cơn bão táp ngưng hẳn, nhóm Văn Thân tại vùng Thanh Nghệ Tĩnh Bình còn tổ chức một cuộc tàn sát tập thể những người Công Giáo trong vùng bằng cách bao vây đốt từng làng. Hơn 60.000 người đã hy sinh trong hai năm 1885-1886, nâng tổng số các vị anh hùng tử đạo lên tới 130 ngàn trong suốt ba thế kỷ cấm đạo.

Mặc dù chui rúc trong hang hầm, lẩn trốn nơi rừng rú, người Công Giáo Việt Nam vẫn trung thành với Chúa, số tân tòng vẫn tiếp tục nâng cao. Trong thời kÿ này đã tăng lên 9 Giáo Phận là Sài Gòn, Qui Nhơn, Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Phòng, Bùi Chu, Vinh, Huế và Nam Vang (gồm Cao Mên và Hậu Giang). Số giáo dân còn sống sót vẫn gần 500 ngàn người.

3. Thời Phát Triển (1888-1933)

Mặc dầu Tự Đức ký hiệp ước với Pháp năm 1884, nhưng máu tử đạo chỉ thực sự ngưng khi Hàm Nghi bị bắt vào năm 1888, làm cho phong trào Văn Thân sụp đổ theo, và Giáo Hội Việt Nam được hưởng thái bình để lo củng cố nội bộ và phát triển đời sống Đức Tin sâu rộng.

Cả Giáo Sĩ lẫn giáo dân một tay kiến thiết cơ sở, một tay làm việc trong cánh đồng truyền giáo. Các vị này tích cực phổ biến lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa và biệt kính Đức Mẹ Maria. các thánh đường nguy nga đồ sộ theo lối kiến trúc Rôma hoặc Gothic, kể cả ngôi thánh đường kiến trúc theo kiểu Á Đông tại Phát Diệm, cũng được xây cất vào thời này. Trong đó phải nói tới nhà thờ lớn Hà Nội, Phú Nhai, Kẻ Sở, Nam Định , Ninh Bình, Đà Lạt, Sài Gòn, Tân Định, Huyện Sĩ, Qui Nhơn.....

Các cơ sở bác ái và giáo dục, các bệnh viện Công Giáo được thiết lập tại nhiều thành phố, như bệnh viện Saint Paul, các chi nhánh trường Dòng Taberd, các trại Dục Anh, Tế Bần, Trại Cùi, Viện Dưỡng Lão... Các cơ sở này được điều khiển bởi các tu sĩ của rất nhiều Dòng đang thi đua du nhập và phát triển tại Việt Nam. Rất đông người theo đạo, có khi cả một làng xin trở lại. Riêng tại giáo phận Bùi Chu trong 12 năm, từ 1885-1897, đã có 83 làng theo đạo Chúa.

Một sự kiện khích lệ hơn cả làm cho lửa Tông Đồ bốc cao là việc Đức Thánh Cha Lêô XIII tôn phong Chân Phước cho 64 vị Tử Đạo vào ngày 27-5-1900, Đức Piô X phong 8 vị năm 1906 và 20 vị năm 1909. Năm 1888 có 9 Giáo Phận với số giáo dân nửa triệu người đến măm 1933 đã tăng lên 14 giáo Phận và số giáo dân hơn 1.300.000. Số Giám Mục là 15 vị và Linh Mục là 1.429 vị. Trước sự phát triển vượt mức như trên, Đức Giáo Hoàng đã chỉ định và tấn phong vị Giám Mục tiên khởi tại Rôma năm 1933.

4. Thời Trưởng Thành (1933-1988)

Trước khi đưa ra quyết định chọn cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng làm Giám Mục. Toà Thánh đã thiết lập toà Khâm Sứ Đông Dương tại Huế ngày 20-5-1925. Hành động này chứng tỏ toà thánh đã coi Việt Nam ngang hàng với các Quốc Gia khác.

Qua các bài báo cáo của toà Khâm Sứ, ngày 6-11-1933, Đức Thánh Cha Piô IX đã đích thân tấn phong cha Nguyễn Bá Tòng làm Giám Mục phụ tá giáo phận Phát Diệm với quyền kế vị.N Năm sau, ngày 18-11-1934 các Giám Mục Đông Dương cùng với Đức Khâm Sứ Dreyer họp Công Đồng thứ nhất tại Hà Nội. Công Đồng đã phân thành nhiều uỷ ban soạn thảo và đúc kết thành quy chế Công Đồng Đông Dương thứ nhất. Quy chế này nhằm phát triển mọi sinh hoạt của Giáo Hội tại đây, đặc biệt đào tạo hàng Giáo Sĩ Việt Nam theo tiêu chuẩn quốc tế và thiết lập mọi tổ chức theo như Giáo Luật hiện hành.

Kể từ đây, các Giám Mục Việt Nam được lần lần tấn phong và thay thế các Giám Mục ngoại quốc, như Đức Cha Hồ Nhọc Cẩn năm 1935 coi Bùi Chu, Đức Cha Ngô Đình Thục năm 1938 coi Vĩnh Long được tách rời khỏi Nam Vang, Đức Cha Phan Đình Phùng năm 1940, Đức Cha Lê Hữu Từ năm 1945.

Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chánh Pháp tại Việt Nam. Trước tình thế này vai trò của các vị Thừa Sai ngoại quốc càng trở nên khăn và số linh mục Việt Nam đủ điều kiện làm Giám Mục tăng thêm nhiều. Toà thánh quyết định "Việt Nam Hoá" hệ thống lãnh đạo Giáo Hội qua việc trao cho Giám Mục bản quốc: Hà Nội cho Đức Cha Trịnh Như Khuê năm 1950, Bắc Ninh cho Đức Cha Hoàng Văn Đoàn năm 1950, Vinh cho Đức Cha Trần Hữu Đức năm 1951, Hải phòng cho Đức Cha Trương Cao Đại năm 1953.

Năm 1954, hiệp định Genève chia đôi đất nước khiến gần 750.000 giáo dân Công Giáo miền Bắc phải di cư vào miền Nam, sự ra đi này để lại một khoảng trống lớn tại miền Bắc, chỉ khoảng 713.000 giáo dân, 7 Giám Mục cà 374 Linh Mục. Tới năm 1959 vị Thừa Sai cuối cùng trong đó có Đức Khâm Sứ Dooley, bị trục xuất khỏi miền Bắc. Giáo Hội tại đây trở thành Giáo Hội thầm lặng.

Trong khi đó, tại miền Nam tự do, với lực lượng từ miền Bắc tăng cường, Giáo Hội phát triển mau lẹ cả bề rộng lẫn bề sâu. Công việc truyền giáo được chú trọng trước hết là vấn đề dậy tân tòng. Năm 1957 đã có 67.854 người theo học các lớp giáo lý người lớn. Riêng giới trí thức Công Giáo càng hoạt động mạnh mẽ hơn, họ tham dự vào các hoạt động quốc gia, các trường đại học, trung tiểu học công tư. Không một họ Đạo nào được thiết lập mà bên cạnh không có trường học, một vài cơ sở bác ái từ thiện, đón nhận nhiều người không Công Giáo hơn người Công Giáo. Nhiều thánh đường lớn được xây cất. Các đoàn thể Công Giáo Tiến Hành, các Dòng Tu nam nữ phát triển mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu mục vụ. Đặc biệt 3 viện đại học Công Giáo đã gây được nhiều uy tín và ảnh hưởng nhất tại miền Nam.

Những bước tiến vững mạnh trên đây đưa tới quyết định của Toà Thánh thành lập phẩm trật Giáo Hội tại Việt Nam qua Tông Hiến Venerabilium Nostrorum do Đức Gioan XXIII ký, ban hành ngày 24-11-1960. Tông Hiến này đặt Giáo Hội Việt Nam dưới quyền điều khiển của hàng Giáo Phẩm Việt Nam. Toàn quốc chia thành ba giáo tỉnh: Hà Nội với các giáo phận miền Bắc dưới quyền điều khiển của Đức Tổng Giám Mục Trịnh Như Khuê, Sài Gòn với quyền điều khiển của Đức Giám Mục Nguyễn Văn Bình và Huế dưới quyền điều khiển của Đức Giám Mục Ngô Đình Thục.

Tính tới năm 1988, miền Bắc đã có một vị Hồng Y và 14 Giám Mục, chừng 350 linh mục và hơn 2 triệu giáo dân. Miền Nam có gần 3 triệu giáo dân, tên dưới 2.000 linh mục. Giáo tỉnh Huế có 12 Giám Mục và Giáo tỉnh Sài Gòn có 16 Giám Mục. Hiện nay theo Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn số giáo dân Việt Nam gần 6 triệu người với 25 Giáo Phận. Một số Giáo Phận có hai vị giám Mục.

Trang chủ

Trang các Thánh