Sơ Lược Tiểu Sử:

21. Antôn Nguyễn Ðích, nông dân; sanh tại Chi Long, Nam Ðịnh; chết 12/8/1838, tại Bảy Mẫu. Thánh Antôn Ðích dùng gia sản nông nghiệp của ngài để giúp cho công việc truyền giáo của Hội Thừa Sai Balê. Ngài bị bắt vì che dấu các linh mục, kể cả Giacôbê Năm, là người đang chạy trốn việc lùng bắt của nhà vua. Bị xử trảm (chém đầu). Phong Á Thánh 1900.    

22. Vinh Sơn Nguyễn Thế Ðiểm, linh mục; sanh 1761 tại Ân Ðô, Quảng Trị, chết 24/11/1838, tại Ðồng Hới. Bị xử trảm (chém đầu). Phong Á Thánh 1900.    

23. Tôma Ðinh Viết Dụ, linh mục, Dòng Ba Ða Minh; sanh 1774 tại Phú Nhai, Nam Ðịnh; chết 26/11/1839, tại Bảy Mẫu. Sau khi chịu chức cha Dụ hoạt động tại tỉnh Nam-Ðịnh. Ngài bị tra tấn dã man trước khi bị xử trảm (chém đầu). Phong Á Thánh 1900. Ngày Lễ: 31 tháng Năm.    

24. Bênađô Võ Văn Duệ, linh mục; sanh 1755 tại Quần Anh, Nam Ðịnh; chết 1 tháng 8, 1838, tại Ba Tòa. Cha Duệ vốn là một tân tòng, học chủng viện, và được thụ phong linh mục. Sau nhiều năm hoạt động truyền giáo, ngài về hưu, sống thầm lặng cho đến khi có tiếng gọi phải tự thú với quân sĩ rằng mình là linh mục. Bị xử trảm (chém đầu) năm 83 tuổi. Phong Á Thánh 1900. Ngày Lễ: 1 tháng 8.    

25 Phêrô Dumoulin-Borie Cao, Giám mục Hội Thừa Sai Balê; sanh 1808 tại Cors (địa phận Tulle), Pháp; chết 24 tháng 11 1838, tại Ðồng Hới. Thánh Cao học chủng viện tại Balê và được thụ phong năm 1832, và được gửi đi Bắc Phần. Ngài bị bắt năm 1836. Trong khi bị giam, ngài dược bổ nhiệm làm Ðại Diện Tông Tòa và làm Giám Mục Miền Tây, nhưng chưa được tấn phong trước thì bị xử trảm (chém đầu). Phong Á Thánh 1900.    

26. Anrê Trần An Dũng (Lạc), linh mục; sanh 1795 tại Bắc Ninh, chết 21/12/1839, tại Cầu Giấy. Khi Trần Anh Dũng lên 12 tuổi, gia đình lên Hà Nội tìm việc. Mặc dầu cha mẹ không có đạo, ngài được học giáo lý của một thầy giảng để có được số vốn học thức mà con cái nhà nghéo không có. Ngài được rửa tội tại Vinh-Tri. Ngài học tiếng Trung Hoa và Latinh, được làm thầy giảng 10 năm, và rồi được thụ phong linh mục năm 1823. Ngài là một nhà truyền giáo kiên trì không biết mệt, bằng lời nói và việc làm, tại nhiều giáo xứ cho đến khi bị bắt năm 1835. Giáo dân của ngài quyên góp đủ tiền để chuộc ngài. Sau đó ngài đổi tên từ Dũng thành Lạc để che dấu căn cước, và rời sang một vùng khác để tiếp tục sứ mạng. Ngày 10 tháng 11, 1839, ngài lại bị bắt cùng với một linhmục Việt Nam khác là cha Phêrô Thi. Cả hai đều được thả ra sau khi dân nộp đủ tiền chuộc, nhưng chẳng bao lâu sau cả hai lại bị bắt và bị giải lên Hà Nội, nơi mà các linh mục thuộc Hội Thừa Sai Balê bị giam riêng để bị tra tấn đặc biệt. Bị xử trảm (chém đầu). Phong Á Thánh 1900. Ngày Lễ: 26 tháng 12.    

27. Phêrô Ðinh Văn Dũng, thầy giảng; sanh tại Ðồng Hào, Thái Bình, chết 6/6/1862, tại Nam Ðịnh. Phong Á Thánh 1951.    

28. Phaolô Vũ Văn Dương (Ðổng), giáo dân, trùm họ; sanh 1792 tại Vực Ðường, Hưng Yên, chết 3/6/1862, tại Nam Ðịnh. Phong Á Thánh 1951.    

29. Phêrô Trương Văn Ðường, thầy giảng; sanh 1808 tại Kẻ Sở, Hà Nam; chết 18/12/1838, tại Sơn Tây. Ngài bị xử giảo (treo cổ chết) cùng với một thầy giảng khác là Phêrô Truật, vì không chịu bước qua thập giá. Phong Á Thánh 1900.    

30. Vinh-sơn Dương, giáo dân; sanh tại Doãn Trung, Thái Bình, chết 6 tháng 6 1862, tại Nam Ðịnh. Phong Á Thánh 1951.    

31. Giuse Fernandez Hiền, linh mục Ða Minh; sanh 1775 tại Ventosa de la Cueva, Tây Ban Nha; chết 24 tháng Bẩy 1838 tại Nam Ðịnh. Sau khi được khấn làm một thầy dòng Ða Minh, ngài được học học trong chủng viện để phục vụ tại Việt Nam. Năm 1805, ngài được gửi đến Bắc Hà, nơi đây ngài được thụ phong linh mục. Ðược bổ nhiệmlàm giám tỉnh ở đây, và bị bắt ngay sau đó. Bị xử trảm (chém đầu). Phong Á Thánh 1900. Ngày Lễ: 11 tháng Bẩy.    

32. Phanxicô-Isidore Gagelin Kính, linh mục; sanh 1799 tại Montperreux (Besançon), Pháp; chết 17 tháng 10 1833 tại Bãi Dâu (Bồng Sơn). Thuộc Hội Thừa Sai Balê. Ðược gửi đến Bắc Hà năm 1822 (23 tuổi), ở đây ngài được thụ phong linh mục khi mới tới nơi. Ngài hoạt động hăng hái cho đến vụ đàn áp bùng nổ, ngài tự thú với quan lại Bồng Sơn và bị treo cổ. Phong Á Thánh 1900.    

33. Matthêô Lê Văn Gẫm, nhà buôn; sanh khoảng 1812 tại Gò Công, Biên Hòa; chết 11 tháng Năm 1847, tại Chợ Ðũi, Nam Phần. Là một thành phần nồng nhiệt của Hội Thừa Sai Balê, ngài hoạt động truyền giáo trên chiếc tầu đánh cá từ Singapore sang Việt Nam. Ngài bị bắt trong công việc bất hợp pháp này năm 1846, bị cầm tù, bị tra tấn, và xử trảm (chém đầu). Phong Á Thánh 1900. Ngày Lễ: 26 tháng Năm.    

34. Melchior Garcia-Sampedro Xuyên, Ða Minh, Ðại Diện Tông Tòa; sanh 1821 tại Cortes, Asturias, Tây Ban Nha; chết 28 tháng Bẩy 1858, tại Nam Ðịnh. Melchoir sinh trưởng trong một gia đình nghèo khó không thể cho ngài ăn học. Ngài dạy văn phạm cho các học sinh nhỏ để có tiền ăn học. Ngài lựa chọn ơn gọi làm linh mục Ða Minh (1845), và được huấn luyến cho việc truyền giáo tại chủng viện Ocada. Ngài đi Phi Luật Tân, và sau đó làm một hành trình gian khổ cùng với Ðức Cha José Diaz Sanjurjo. Ngay sau khi tới nơi, Garcia được bổ nhiệm làm phụ tá cho Ðức Cha Diaz, vị Ðại Diện Tông Tòa. Khi cha Garcia muốn tuyên bố công khai rằng ngài là một linh mục, công đồng công giáo địa phương thuyết phục được ngài rằng họ cần sự hiện diện của ngài, và ngài đã để cho họ che dấu ngài. Nhưng rồi cha Garcia cũng bị khám phá, bị bắt, và nhốt trong cũi với hai người anh em đồng hương của ngài. Ngài bị lăng trì (phân thây), các bạn ngài bị xử trảm (chém đầu), và xác họ bị thẩy xuống hố. Một số xương thánh của họ được thu lượm. Phong Á Thánh 1951.

xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam ban cho dân tộc Việt Nam chúng con được can đảm sống đức tin như các Thánh.