Tháng Các Linh Hồn - Tìm Hiểu Lời kinh cầu hồn trong văn hóa Việt Nam Gm Vũ Văn Thiên | |
Tại một số giáo phận miền Bắc, nhất là các Giáo phận do các Thừa sai dòng Đa-minh truyền giáo trước đây, nhiều tín hữu rất quen thuộc với kinh “ Một bài văn tế thường gồm bốn phần : Lung khởi: mở đầu, thường bắt đầu bằng chữ Hỡi ôi, sau đó là lời than vãn Thích thực: mở đầu bằng chữ “Nhớ linh xưa” sau đó là phần tuyên xưng công trạng của người đã quá vãng Ai vãn: mở đầu bằng “khá thương thay” sau đó là niềm thương tiếc và cảm phục. Kết: nói lên tâm tình thương tiếc và rút bài học cho người còn sống. Kinh Phục Rĩ cũng được soạn thảo theo đúng dàn bài trên, nhưng điều tuyệt tác của cha ông chúng ta là làm cho lời kinh trở thành một lời tuyên xưng đức tin, tạo cho “bài tế” mang một nét rất mới mẻ. Người viết không dám đi sâu hơn vào lãnh vực văn chương mà chỉ mạo muội so sánh sự khác biệt giữa nội dung một bài tế và kinh Phục Rĩ trong hai phần mở đầu (Lung khởi) và nội dung chính (Thích thực). Trong phần mở đầu, nếu bài tế người qua đời mở đầu bằng lời than vãn trước sự ra đi của một người thân hoặc một nhân vật anh hùng, thì kinh Phục Rĩ lại mở đầu bằng lời tuyên xưng đức tin, tôn vinh Thiên Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng ngự trên chín tầng trời. Ngài là chủ của sự sống, là Chúa của muôn loài muôn vật. Chúng ta cùng so sánh lời mở đầu giữa hai bài tế của Cụ đồ Chiểu với kinh
Hỡi ôi ! súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ Mười năm công vỡ ruộng, chưa chắc còn danh nổi tơ phao: một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ. (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, năm 1861) Hoặc: Hỡi ôi ! Tủi phận biên manh Căm loài gian tặc Ngoài sáu tỉnh hãy gợi câu án đổ, dân nhờ vua đặng lẽ sống vui Trong một phen sao mắc chữ lục trầm, người vì nước rủ nhau chết ngặt (Điếu lục tỉnh Nam Kỳ sĩ dân văn).
Trước vong linh người đã chết, người tín hữu Công giáo lại mở đầu bằng lời kinh ca tụng và tôn thờ: “Phục rĩ: Chí tôn chân Chúa cửu trùng cao ngự chi thiên, Khả tiểu phàm phu, vạn vật hữu sinh chi địa”. Chiếu lâm bất sảng, phú tại vô tư Dịch: Lạy Chúa chí tôn Thiên Chúa cửu trùng cao ngự thiên cung Thẩm nhận đoàn con – phàm hèn giữa muôn tạo vật Chúa soi thấu cả, chẳng có đơn sai.[2]
Như thế, nếu bài văn tế nhằm than vãn trước sự ra đi của người thân, thì kinh Cũng trong chiều hướng đó, cách nói về một người đã nằm xuống cũng rất khác biệt. Trong Phần “Thích thực” là nội dung chính của bài tế, người ta kể lể công trạng của người đã chết, để tuyên dương ca ngợi những việc họ đã làm. Cụ Đồ Chiểu trong bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” đã ca ngợi những người nông dân suốt đời chân lấm tay bùn, hiền lành là vậy, mà khi có giặc ngoại xâm đã bỗng chốc trở nên anh hùng. Chúng ta cùng so sánh: Nhớ linh xưa Côi cút làm ăn; toan lo nghèo khó Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ... Ấy vậy mà khi quân xâm lăng đến, họ bỗng trở nên mạnh mẽ: Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Khi tưởng niệm một người qua đời, kinh Thiết niệm linh hồn (mỗ) Tự tòng sinh tiền, chí kim tự hậu Thụ Thiên Chúa cực đại chi ân. Lự thử hồn vô tình chi vật. Dịch: Nhớ lại linh hồn... Khi còn sinh thời đến khi lâm mệnh Chịu ơn Chúa thực đã bao nhiêu – thật quả hồn vô tình chi vậy. Hơn thế nữa, vào lúc một người đã chết, nhìn lại chặng đường đã qua, xem ra họ chẳng làm được gì đáng kể. Thời giờ Chúa ban hầu như đã trở nên vô dụng, như dòng nước trôi đi không trở lại. Kinh Phục Rĩ là lời cầu nguyện sám hối chân thành thống thiết: Bình sinh cư thế, bất thức bất vụ bất sự lực khuy Vãng nhật đa khiên, hoặc tư hoặc ngôn hoặc hành hữu mậu Hoặc bị linh hồn ký hãm minh ngộ, ái dục tam năng Đa vị biệt dung bất chuyên ức chuyên mộ chuyên tư; hoặc bị phục thân nhĩ mục khẩu tuỵ thủ túc tứ thể, vọng các tha kỳ, mãn tuyến kính tuyền tuân tuyền phụng” Dịch: bình sinh trên thế, chẳng biết, chẳng giữ, chẳng cứ việc ngay Lỗi phạm bao nhiêu, hoặc suy hoặc nghe hoặc làm sự tội Hoặc tại linh hồn mắc điều gian nịnh thiếu sự khôn ngoan, bao nhiêu trọng tội Chính không nhớ không mộ không suy; hoặc tại phần thân xác nặng chẳng tìm nẻo chính lối phải. Chẳng cứ tâm thành, chẳng vì kính vì vâng vì trọng. Cũng chính vì ý thức sự yếu hèn của mình mà lời kinh kêu nài ơn tha thứ nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô, đồng thời nhờ lời cầu bầu của Đức Maria, các thiên thần, thánh Bổn mạng, thiên thần hộ thủ và toàn thể chư thánh cùng bầu cử trước tòa Chúa cho người đã qua đời được siêu thoát: Á thân Chúa Da-tô, thục tội thi ân chi đại nhân từ Thánh Mẫu vị kỳ xá quá cho đa. Dịch: Ôi lạy Chúa Giê-su, chuộc tội ban ơn khôn lượng, cậy nhờ Thánh mẫu, nguyện cầu khẩn Chúa thương tha.
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sữi thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ. Hỡi ôi thương thay Có linh xin hưởng” (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc) Kinh Phục Rĩ lại kết thúc như sau: Nguyện thử linh hồn, khiết thăng thiên quốc, Xuân đài tự tại, chân hưởng phúc chi vô cùng Thọ vực tiêu rao tín thường sinh chi hữu vinh Kinh văn sở đảo thỉnh chúng đồng âm. Amen Dịch: Nguyện cầu thanh tẩy linh hồn chóng lên thiên quốc Muôn đời cực lạc, an hưởng phúc vui vô cùng Nguyện được Cha ban phúc trường sinh nơi vĩnh viễn Trông mong khẩn khoản, hết thày đồng tâm. Amen.
Như đã nói trên, nội dung của lời cầu nguyện đã được thay đổi. Tác giả đã khéo léo lồng vào một bài văn tế quan niệm nhân sinh của Tin Mừng. Tâm tình cậy trông, sám hối và hy vọng được nêu rõ trong lời kinh. Chính nhờ đó mà kinh Phục Rĩ vừa gần gũi với tầng lớp bình dân, vừa dễ đi vào lòng người vì nó mang theo cái hồn của văn chương Việt Nam, dễ hướng những người tham dự hướng về tiên tổ, với tâm tình cầu nguyện hoàn toàn mới mẻ. –––––––––––––––––––––––––––––––––– [1] Theo nhà thơ Lê Đình Bảng, tác giả của kinh Phục Rĩ có thể là một thày giảng có tên là Phan-xi-cô, xuất thân là một vị Hòa Thượng tiến sĩ, làm quan lớn trong phủ Chúa Trịnh, khoảng năm 1632. Có tài liệu cho rằng sau này Thày Phan-xi-cô đã chịu tử đạo năm 1640 (Xem Lê Đình Bảng trong http://dunglac.org/) [2] Phần dịch nghĩa Kinh Phục Rĩ trích từ bản dịch của Đức Ông Phạm Hân Quynh, Gp Hải Phòng. Vì chú trọng đến âm vận để đọc chung trong cộng đoàn, nên có nhiều chỗ dịch không hoàn toàn sát nghĩa bản chữ Hán. | |
Trang chủ | Trang các Thánh |