Hạnh Các Thánh


Ngày 20 tháng 10

THÁNH GIOAN LÊÔNAĐI

SÁNG LẬP DÒNG CÁC GIÁO SĨ MẸ THIÊN CHÚA

Là một xứ sở được thấm nhuần đức tin công giáo tự lâu đời, nước Italia có thể nói đã góp rất nhiều vào công cuộc bênh vực, chấn hưng và truyền đạo, nhất là quãng thế kỷ XVI, khi những biến cố lịch sử làm cho tinh thần đạo đức xã hội Âu châu bị lung lạc và sa sút.

Một trong những người có sáng kiến và hoạt động cho phong trào công giáo tiến hành lúc bấy giờ là cha Gioan Lêônađi. Người đã có công thiết lập một học viện dành riêng cho các giáo sĩ triều và một trường chuyên đào tạo các linh mục thừa sai, hầu gửi đi các xứ truyền giáo.

Gioan ra đời năm 1541 hoặc 1543 tại Dêcimô, một địa sở thuộc miền trung nước Ý. Là con một gia đình thanh bạch, Gioan được song thân gửi tới tập nghề ở nhà một người bán thuốc, để sau này có kế độ thân. Nhưng do hoàn cảnh xui khiến cùng với ơn Chúa thúc giục bên trong, vị linh mục thánh tương lai ấy lại mơ ước được làm một y sĩ thiêng liêng chữa bệnh cho các linh hồn. Thế nhưng, mãi đến năm 25 tuổi, Gioan mới đáp lại tiếng gọi huyền bí của Thầy Chí Thánh. Mặc dầu đã luống tuổi, nhưng cũng như Inhaxiô Loyola, Gioan không sợ thẹn phải học La ngữ với những em học sinh chín mười tuổi! Nhưng với trí khôn minh mẫn, lại thêm có óc suy nghĩ cẩn trọng và ý chí sắt đá, chỉ trong bốn năm Gioan đã có thể đọc thông những tác phẩm triết học và thần học bằng La ngữ. Bề trên xét ngài đã đủ điều kiện và có tư chất nên đã truyền chức linh mục cho ngài năm 1571.

Thời đó, tại Lucques, một thành phố tại miền duyên hải Trung Ý, tinh thần đạo đức của dân thành đã xuống dốc, người ta hoang mang hỗn loạn vì lý thuyết nguy hiểm của Bênađin Siêna (không phải thánh Bênađinô Siêna), một tu sĩ dòng Phanxicô đã phá giới theo Tin lành và kết duyên với một phụ nữ ở Lucques. Là một tân linh mục còn đầy nhiệt huyết và sốt sắng, cha Gioan không khỏi đau lòng trước sự kiện đó. Nhưng chỉ than khóc suông mà không tìm phương liệu cách để chặn đứng những ảnh hưởng tai hại kia đi thì cũng vô ích. Nhận định như thế, cha Gioan bắt tay vào việc, với tất cả bầu nhiệt huyết, dẹp tan những đồi bại luân lý và ảnh hưởng nguy hại do lý thuyết của Bênađin gây nên. Phương thế cha dùng là chăm lo giảng giải và làm phép giải tội cho mọi người, vì cha biết rằng: sở dĩ người ta lầm lạc và sa ngã chỉ vì không được nghe giảng giải và lĩnh thụ bí tích. Công việc của cha đưa lại nhiều kết quả, vì ai nấy đều ham nghe lời cha giảng mà xin chịu phép bí tích cách sốt sắng. Để chuẩn bị cho đám thanh thiếu niên, cha lập một hội gọi là “Hội giáo lý” trong đó các hội viên nam nữ là những người có thiện chí tông đồ và hằng ân cần đến việc giáo dục tôn giáo. Họ sẽ chuyên lo việc dạy giáo lý cho các con em.

Dầu sao, chỉ với tư cách là giáo dân, những “Hội viên giáo lý” không có thể giúp đỡ cha trong hết mọi công việc được, những giáo sĩ mới là những người có khả năng và thẩm quyền để cộng tác với cha một cách hữu hiệu về hết mọi phương diện. Vì thế, dựa theo sáng kiến và tổ chức của cha Philippê Nêri, ngày mồng một tháng chín, cha Gioan Lêônađi cũng thành lập một hội tu sĩ mới, đặt trụ sở tại nhà thờ Đức Mẹ Mân Côi. Vì nhiệt thành truyền giáo và ham muốn sống đời thánh thiện, các hội viên thúc giục cha soạn thảo bản nội quy xác định đường lối tu đức và chương trình hoạt động cho hội dòng. Chiều ý mọi người, cha Gioan lấy một tờ giấy ghi vỏn vẹn có hai chữ “Phục Tông”; mọi người đều hiểu đó là tất cả tinh thần tu đức mà hội dòng của cha phải làm sáng tỏ. Năm sau, Đức Giáo Hoàng Clêmentê VIII gửi một văn thư Tòa thánh, châu phê hội dòng do cha Gioan thiết lập. Đức Giáo Hoàng Phaolô V lại ấn định phải gọi các tu sĩ hội dòng là các “Giáo sĩ Mẹ Thiên Chúa”. Và năm 1621, dưới triều Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XV, hội dòng các “Giáo sĩ Mẹ Thiên Chúa” hân hạnh được xếp hạng ngang hàng với những dòng tu kỳ cựu trong Giáo hội, theo chủ trương của vị sáng lập dòng Giáo sĩ Mẹ Thiên Chúa, là đặc biệt chuyên lo việc giảng thuyết và giải tội cho giáo dân.

Nhờ ở lòng nhiệt thành của vị sáng lập cũng như của các giáo sĩ dòng Mẹ Thiên Chúa, thành phố Lucques dần dần được phục hồi lành mạnh. Nhưng để được kết quả ấy, nhà Y sĩ chữa bệnh cho nó đã phải nhiều phen nao núng vất vả: bị tấn công tứ bề, bị lăng mạ, sỉ nhục, và còn bị đe giết chết nữa là khác. Trước những cơn giông tố phũ phàng giồn giập xẩy tới, cha Gioan chỉ biết theo gương Chúa, lấy nhẫn nhục và hiền hòa để đối lại. Đôi lần cha đã cảm hóa và giáo hóa được với đối phương của cha, nhưng rốt cuộc Chúa vẫn để cho lòng ghen tương và căm hờn của những kẻ bất lương thắng thế, và cha bị trục xuất khỏi Lucques! Cha chịu đựng sự thử thách với lòng tin tưởng và phó thác.

Cha dọn về Rôma và được Đức Grêgôriô XII ân cần tiếp nhận. Trong thời gian lưu trú tại đây, cha Gioan nhận thánh Philippê Nêri, người mà cha coi như anh cả, làm cha linh hướng để giúp ngài trên đường tu đức và hoạt động. Như để khuyến khích và cũng để xác nhận một phần nào sự thánh thiện của con thiêng liêng mình, vị linh hướng ấy một ngày kia đã nói chơi với Gioan rằng: “Con là một đấng thánh rồi đó, nhưng phải cố duy trì lấy tình trạng ấy mãi”. Sự thâm hiểu nhau càng làm cho tình cha con thiêng liêng và tình bạn giữa hai người ngày một thêm thắm thiết và khăng khít. Chẳng thế mà năm 1583, khi bỏ San Giromo della Carita để dọn đến ở Vallicella, thánh Philippê Nêri đã giao lại cho cha Gioan tất cả tòa nhà, chìa khóa buồng ngài ở, cho đến con chó nhỏ mà ngài rất yêu thích. Cha Gioan rất sung sướng vì được hoàn cảnh và địa điểm thuận tiện để đưa các sinh viên của cha đến ở đó, hầu cha con có thể gần gũi với nhau hơn.

Sẵn có bản tính hiền hòa và thái độ mau mắn giúp đỡ, nên dù ở đâu cha cũng được nhiều người kính nể, yêu mến. Cha lại có tài giải quyết những vụ tranh chấp một cách dễ dàng. Nhiều vị giám mục tại triều đình Rôma thường lui tới bàn hỏi và nhờ cha giúp nhiều công việc. Nếu ở Lucques, ngài thất bại vì “thông lệ kẻ làm tiên tri, ít được trọng dụng ở quê nhà”, thì trái lại, ở nhiều nơi khác cha đã thành công rực rỡ trong việc dàn xếp những câu chuyện rất khó khăn. Chẳng hạn như việc xung khắc giữa tỉnh Napôli và đức giám mục địa phận Nola. Tín nhiệm vào khả năng của cha, Tòa thánh còn uỷ thác cho cha Gioan công việc thanh tra tu viện núi Monta Vergina để điều chỉnh lại những khiếm khuyết và bất hợp pháp mà các tu sĩ ở đây đã gây nên. Vụ rắc rối của các tu sĩ dòng Biển Đức ở Vallombrosa cũng được ngài phân xử một cách công minh, cương quyết và khôn khéo, đến nỗi không ai mất lòng mà trái lại còn nhớ ơn ngài mãi mãi.

Tuy nhiên, vị bề trên dòng các giáo sĩ Mẹ Thiên Chúa vẫn không thỏa mãn chút nào với những công việc bác ái ấy, vì nó chỉ hạn hẹp trong một địa điểm hay với một nhóm người. Là một người có óc trông xa nhìn rộng, cha Gioan muốn cho các tu sĩ dòng cha sẽ băng mình đi muôn phương, truyền giáo cho những miền xa xăm còn ngoại đạo. Mộng to tát của cha bị cản trở một phần nào vì thánh Philippê lại muốn cha cứ ở trên đất Ý. Dầu vậy, ta cũng đừng vội kết luận rằng ngài đã không làm gì cho những lương dân mà ngài hằng khao khát đem ánh sáng đức tin đến cho họ. Vào năm 1603, cùng với một Giám mục người Tây Ban Nha là Gioan Vives, cha Gioan phác họa chương trình thiết lập một Đại chủng viện danh tiếng mà 24 năm sau Đức Giáo Hoàng Ubanô VIII sẽ thành lập; đó là Trường Truyền Giáo, một nơi sẽ tụ họp các sinh viên gồm đủ mọi mầu da nước tóc từ những xứ sở xa xăm gửi đến.

Tại Rôma, vì quá nhiệt thành săn sóc những người bị bệnh dịch ở nhà thương Đức Mẹ Nội thành, nên cha Gioan bị lây bệnh và từ trần tại đó ngày 09.10.1609. Chín năm sau, các tu sĩ dòng cha đã bốc hài cốt ngài và đem về để tại một bàn thờ trong thánh đường Đức Mẹ ở Campitelli. Mãi đến năm 1746, Tòa thánh mới lập bản tuyên dương những đức tính anh hùng của người môn đệ thánh Philippê Nêri. Được tôn lên bậc chân phúc năm 1622, rồi được phong Á thánh năm 1861, gần đây, tức năm 1938, Giáo hội mới phong cha Gioan Lêônađi lên bậc Hiển thánh và ấn định ngày để mừng lễ kính ngài.

Ngày nay, hơn khi nào hết, nhiều lý thuyết sai lạc, nhiều tập tục phản phong hóa và đức tin đang thi nhau xuất hiện. Và những tiên tri giả, tay sai của ác thần đang dùng đủ mọi phương tiện như sách vở, báo chí, phim ảnh và đời sống luân lý để tuyên truyền tà thuyết của chúng. Trước tình thế bi thảm đó, chúng ta hãy noi gương thánh Gioan Lêônađi nỗ lực củng cố đức tin của chúng ta cũng như của những anh em đồng loại, bằng lời cầu nguyện, bằng đời sống và hoạt động tông đồ trong các ngành công giáo tiến hành, nhất là bằng cách tìm hiểu giáo lý, và huấn luyện tinh thần đạo đức cho các con em của chúng ta. Chỉ với những phương thế ấy chúng ta mới hy vọng cứu xã hội khỏi tình trạng lầm than và sa đọa, để dẫn đưa anh em đồng loại của chúng ta tới nguồn chân lý bất diệt là Thiên Chúa.