Hạnh Các Thánh


Ngày 19 tháng 10

THÁNH PHAOLÔ THÁNH GIÁ LINH MỤC

THÁNH GIOAN BRÉBEUF LINH MỤC

THÁNH ISAAC JOGUES LINH MỤC VÀ CÁC BẠN TỬ ĐẠO

THÁNH PHAOLÔ THÁNH GIÁ LINH MỤC

(1694-17550)

Ít có biến cố đẹp mắt để ghi lại cuộc đời của Phaolô Pranes Đaniel. Ngài dành trọn đời cho cầu nguyện, sám hối và tôn sùng cuộc tử nạn của Chúa. Ngài là dụng cụ phổ biến lòng tôn sùng này với dòng tu ngài thiết lập: “DÒNG THƯƠNG KHÓ”. Ngài sinh tại Ovađa, miền bắc Italia, năm 1694, trong một gia đình trung lưu đạo đức. Dầu cuộc sống ngài cho tới tuổi 15 đã diễn ra như cuộc sống bình thường của người kitô hữu, nhưng vào thời kỳ này, ngài đã trải qua một loạt trở ngại khiến ngài dâng trọn đời cho việc cầu nguyện, hãm mình: ngài quỳ gối lâu giờ, thực hành những việc phạt xác, như ngủ trên đất và ăn chay liên tục, nhờ đó gây ảnh hưởng rất nhiều đối với những người đương thời, khiến nhiều người đi tu dòng hay làm linh mục triều.

Vào năm 20 tuổi, việc gia nhập đạo quân Venitia để bảo vệ Kitô giáo chống lại người Hồi giáo, nhưng sau một thời gian, lý tưởng ngài đã khác. Ngài đã trở lại đời sống cầu nguyện hãm mình.

Sáu năm qua đi và đến lúc 26 tuổi, ngài mới thấy rõ hơn chuỗi ngày tương lai của mình trong một loạt các thị kiến. Ngài hiểu rằng mình phải lập một dòng tu đặc biệt tôn sùng “cuộc khổ nạn Chúa Giêsu”. Trước hết, ngài đã bắt đầu nếp sống mà tu sĩ dòng Thương Khó sẽ phải sống, trong khi phác thảo một quy luật gửi về Rôma xin phê chuẩn. Sau một ít khó khăn, luật này đã được chuẩn nhận. Ngài và em mình là Gioan Tẩy Giả đã lập dòng ở Montê Argentarô và nhận những tập sinh đầu tiên. Đức Bênêđictô XIV đã buộc giảm nhẹ đôi chút sự khắc khổ trong đời sống tu và đi rao giảng trong các miền lân cận. Phaolô là một nhà truyền giáo nhiệt thành rao giảng cuộc Thương Khó Chúa khắp nơi, và gây được nhiều cuộc trở lại. Những năm cuối đời, ngài đã lập dòng các nữ tu Thương Khó. Bấy giờ ngài đã được dân chúng coi như là một vị thánh và mỗi khi đi qua đâu, ngài phải chịu đựng đám đông, những người lo kiếm miếng vải áo ngài làm thánh tích, họ chạm tới ngài hay xin ngài chữa bệnh hoặc một ân huệ nào khác... Ngài qua đời ngày 18.10.1755 vào tuổi 80 và được phong thánh khoảng năm 1865.

Điều lạ lùng là vị thánh người Italia này không hề rời xa quê hương mình sinh trưởng, lại rất quan tâm tới việc trở lại của nước Anh mà ngài biết đến rất ít. Ngài nói: “Nước Anh luôn ở trước mặt tôi, và nếu nước Anh trở lại Công giáo thì ích lợi cho Giáo hội vô kể”. Dầu bản thân ngài đã không thể đi bước tích cực nào để cải tiến vấn đề, cũng cần ghi lại rằng: sáu mươi lăm năm sau, khi ngài qua đời, một tu sĩ dòng Thương Khó, anh Đaminh Barbeni đã tới nước Anh và trở thành dụng cụ đưa Jobn Henry Newman và nhiều người khác nữa về hiệp thông với Giáo hội. Như thế là góp phần vào việc phục hồi đạo công giáo tại xứ sở này.

 

-o0o-

* THÁNH GIOAN BRÉBEUF LINH MỤC

* THÁNH ISAAC JOGUES LINH MỤC VÀ CÁC BẠN TỬ ĐẠO

Việc truyền giáo cho thổ dân Bắc Mỹ (Canađa và Hoa kỳ) được Tòa thánh trao cho dòng Tên nước Pháp từ năm 1632. Nhưng ngay từ năm 1608, hai tu sĩ dòng Tên đã đến giảng đạo tại miền Tân Scốtlen (Nova Scotia), công việc bị ngưng lại vì cuộc chiến tranh Anh- Pháp dành nhau thuộc địa. Năm 1632, Canađa liên kết với Pháp và Tòa thánh trao cho dòng Tên đảm trách việc truyền giáo cho thổ dân, như nói trên, mới lập được một trung tâm tại Ruebee.

Vì thiếu nhân sự và hoàn cảnh khắc nghiệt, các tu sĩ dòng Tên tập trung vào mấy bộ lạc thuộc dân Hurons trên lãnh thổ Canađa. Dân Hurons sống gần hai sắc dân thù nghịch nhau sâu sắc là Algonguin ở Canađa và Iroquois ở Hoa kỳ. Iroquois là dân rất hiếu chiến, thường ỷ thế người Hòa lan để đánh phá dân Hurons. Nhiều nhà thừa sai đã trả giá cho sứ mạng truyền giáo bằng mạng sống mình, trong đó có tám vị mà chúng ta kính nhớ hôm nay.

Trước hết là ba vị tử đạo tại Auresville, bang Neu You, Hoa kỳ là:

* Thánh Rênatô Goupil, một thanh niên thiện nguyện theo giúp các thừa sai, sinh năm 1608 tại Angens, tử đạo ngày 29.9.1642.

* Thánh Isaac Jogues, một linh mục, sinh năm 1607 tại Orléans, tử đạo ngày 18.10.1646.

* Thánh Gioan Lalande, một thanh niên thiện nguyện, sinh năm 1622 tại Dieppe, tử đạo ngày 10.10.1646.

Tiếp đó là năm linh mục tử đạo tại Midland ngày nay ở Canađa:

* Thánh Antôn Danill, sinh năm 1601 tại Dieppe, tử đạo ngày 07.4.1648.

* Thánh Gioan Brébeuf, sinh năm 1593 tại Bayeuse, tử đạo ngày 16.3.1649.

* Thánh Gabruis Lallement, sinh năm 1610, tại Paris, tử đạo ngày 17.3.1649.

* Thánh Carôlô Garnies, sinh năm 1606 tại Paris, tử đạo ngày 07.12.1649.

* Thánh Noel Chabanel, sinh năm 1613 tại Mendes, tử đạo ngày 08.12.1649.

*
* *

Tiếp nhận vùng truyền giáo năm trước thì năm sau, 1633, linh mục bề trên dòng Tên tại Pháp là Phaolô Le Jeune cùng với hai linh mục Brébeuy và Daniel mạo hiểm đến Ennemond Massé. Các nhà tiên phong này rút được một kinh nghiệm là: khi theo thổ dân Algonaguin đi săn bắn, lời rao giảng của các vị bị phá hoại vì dân da đỏ ra reo hò, chế diễu bằng những từ độc ác đặt ngang với những từ chỉ đức tin công giáo. Cha Le Jeune cũng nhận ra bốn yếu tố tệ hại nhất trong đời sống thổ dân da đỏ là: lạnh, nóng, khói và chó. Trong một căn lều chật ních đàn ông đàn bà túm tụm với nhau tránh rét, họ đốt lửa sưởi cháy bừng bừng tỏa ra những làn khói khét lẹt, gây nên tật mù lòa, bên cạnh một đàn chó hôi hám và rất dữ. Tình trạng đó khiến ông nêu lên nhận sét này: “Những lương dân da đỏ bất hạnh sống ở thế gian trong đám khói mù mịt, để rồi chôn vùi cuộc sống vĩnh cửu trong lửa cháy bừng bừng”.

Cha Le Jeune kết luận: không hy vọng truyền giáo được, nếu không đến với những bộ lạc đã định cư. Trong vùng bấy giờ chỉ có dân Hurons đã định cư ở phía đông đại hồ Hurons, và đã liên kết với người Pháp. Các cha quyết định lập trung tâm truyền giáo tại đó. Dân Hurons bấy giờ gần hơn hai chục nghìn người, chia đồng đều thành ba mươi làng, mỗi làng chừng bảy trăm người. Năm 1634, các cha Brébeuf và Đaniel đã hòa đồng được với sắc dân đó. Họ là những người lịch sự, nhưng trừ trẻ em và những người hấp hối, họ hầu như không thể trở lại đạo được. Họ coi công giáo chỉ là đạo của người da trắng. Họ hỏi: “Lên thiên đàng, các ông có săn bắn, có chiến tranh không, có mừng hội lễ không?” Được trả lời là không, họ đáp lại: “Thế thì chúng tôi không lên đâu. Nhàn cư vi bất thiện mà”. Ngoài ra, các vị truyền giáo còn nhận thấy họ có những tập tục trái hẳn với nếp sống công giáo, chẳng hạn: khi cưới xin, các chàng trai phải tranh đấu với nhau đến mất mạng mới được nhà gái bằng lòng gả con; hành hạ kẻ thù chiến bại; và ăn thịt người. Nhưng các vị quyết định tập trung họ lại, không những coi họ là đồng minh, mà còn hy vọng khuyến khích họ kết hôn với dân gốc Pháp.

Quyết định này được coi là sáng suốt. Năm 1638, hai linh mục nữa được gửi đến tăng cường, đó là Carôlô Gornien và Isaac Jogus. Dân da đỏ Iroquois bắt đầu tỏ ra thù nghịch với các thừa sai dòng Tên, coi các vị như những nhà phù thủy đến nguyền rủa dân tộc họ. Khi thấy bóng áo dài của các vị vừa in trên nền tuyết trắng, trẻ em đã khóc thét lên, như là bị đói, bị bệnh dịch tễ. Thời gian đó, cha Gioan Brébeuf thị kiến thấy một thập giá vĩ đại từ miền đất của dân Iroquois đến với mình. Khi được hỏi thập giá ấy giống gì, cha đã trả lời: “Nó to lớn đủ để đóng đinh tất cả chúng ta”.

*
* *

Đó có thể là một thị kiến tiên báo, và lời cha nói có thể là một sứ ngôn nói trước những gian nan đang chờ đón các vị. Thật vậy, ba mươi năm trước, dân Iroquois đã bị lực lượng Pháp đánh bại. Từ đó họ vẫn nuôi căm hờn với người Pháp, trong đó có cả các thừa sai. Tháng 8 năm 1642, Jogues và Goupil đi với một nhóm thổ dân từ Québu, đem thực phẩm cần thiết về cho các vị thừa sai và những người dân nghèo đói. Họ bị dân Iroquois tấn công và bắt giữ. Dân này gặm tay họ như một đàn chó dại, rút hết móng tay, và mỗi khi dẫn đi qua làng nào, bắt họ phải chạy giữa hai hàng người để bị đánh đập. Họ còn bị hành hạ vì than đỏ đã cháy, giáo mác đâm chọc, cắt xẻo để diễu cợt. Họ bị chết dần trong một bầu không khí quỷ quái: bị thiêu sống rồi phân thây phát làm thức ăn cho mọi người...

Rênatô Gougil bị hành hạ tồi tệ nhất. Sau cùng người ta lấy búa chẻ đầu anh vì anh đã dám rửa tội cho một em bé. Jogues thì bị giam giữ nhiều tuần với một bản án tử hình treo. Cuối năm 1643, cha đã trốn được về Pháp nhờ mấy nhà buôn Hòa lan giúp đỡ. Năm 1644, ngài lại trở lại trụ sở truyền giáo; chính quyền Pháp ở Canađa gửi ngài làm một sứ giả đến với dân Iroguis trong thời gian tạm hưu chiến ngắn. Kết quả việc cha trở lại này là đáng khích lệ. Cha đem theo Gioan Lalanda. Nhưng một vụ mất mùa xảy ra, và một cái hộp gặp thấy trong đồ vật của cha Gioan; người Iroquois cho đó là hộp chứa chất gây tai họa. Thế là cả hai cùng bị bắt, bị hành hạ và bị giết.

*
* *

Nhưng về phía dân Hurons thì đã bắt đầu đón nhận đức tin công giáo. Tinh thần họ hoảng loạn vì những cuộc tấn công liên lỉ của dân Iroquois. Các cuộc tử đạo lại kế tiếp xảy ra. Ngày 04.7.1648, pháo đài chính của giáo xứ thánh Giuse bị Iroquois phá hủy, linh mục Antôn Đaniel đã ở đây liên tục bốn năm, đem được chừng 26 ngàn người về lập thành giáo xứ. Hôm đó, lúc dân Iroquois phá hủy pháo đài thì cha vừa làm lễ xong. Cha bảo đám người bảo vệ cha, tiễn đi và nói: “Tôi sẽ cứ ở lại đây, chúng ta sẽ gặp nhau trên thiên đàng”. Măïc nguyên lễ phục, cha tiến ra gặp người Iroquois. Họ bỡ ngỡ nhìn cha một lát, rồi đồng loạt bắn tên vào cha. Họ xúm vào bắt cha tắm mặt vào máu cha và ném xác cha vào ngôi nhà thờ đang bốc cháy.

Mùa xuân năm sau, người Ironquois tăng gấp đôi lực lượng đánh phá dân Hurons. Họ đem một nghìn người tấn công vào làng Saint Luis, bắt hai linh mục Brébeuf và Lallement. Cha Brébeuf bị hành hạ ghê rợn, kiệt sức, chết sau bốn tiếng đồng hồ. Họ nung đỏ những chiếc rìu, xếp thành một vòng quanh cổ ngài. Một người Hurons bội giáo uống máu ngài; trái tim ngài được dành cho thủ lĩnh của họ nhấm nháp. Cha Lallement ốm yếu, cũng sống được sau 17 giờ bị hành hạ mới chết.

Còn sót lại hai vị trong đoàn vị thừa sai. Người Iroquois gào lên đòi mạng sống hai vị khi họ đến khủng bố sắc dân Trobaccô sống tại thung lũng núi Blue. Họ tấn công giáo xứ Saint Jeon vào tháng 12.1469. Cha Carôlô Garmin bị giết lúc ngài cố gắng giải tội cho một giáo dân da đỏ hấp hối. Là công dân của đô thành ánh sáng Paris, nhưng ngài từng đã phải sống bằng rễ cây và trái sồi, lội ba bốn dặm dưới nước nóng mùa hè qua miền đất hận thù để rửa tội cho một người da đỏ sắp chết. Còn lại một mình Noel Chabemel. Cha chán ngán trước tình trạng thảm khốc của miền truyền giáo, nhưng cũng tự tuyên thệ sẽ trụ lại đó cho đến chết. Ngay hôm sau ngày cha Carôlô Garmin bị giết, một giáo hữu Hurons bội giáo đã giết chết cha, với miền đất cuồng tín rằng chính công giáo đã gây ra số phận đau khổ của quê hương anh ta. 

*
* *

Cuộc truyền giáo cho người dân da đỏ Hurons, như vậy ở bước đầu thật là gian khổ, chỉ thấy chán nản, thất vọng và loạn lìa. Tuy vậy, mồ hôi, nước mắt và máu của các vị thừa sai ấy đã thay đổi nếp sống của dân da đỏ, dầu về sau còn hoang dã nhưng đã hết độc ác. Và đã gây được một cộng đoàn tín hữu da đỏ nhiệt thành, trong đó có nữ trinh chân phúc Kateri Tekakuitha mà Giáo hội Mỹ châu hiện nay kính vào ngày 14 tháng 7.

Các vị thừa sai tử đạo nói trên được Đức Piô XI phong thánh năm 1930. Trước kia chỉ kính nhớ tại địa phương, sau này Đức Phaolô VI đã truyền kính chung trong cả Giáo hội vào ngày hôm nay.