Các lệnh
cấm đạo năm 1750, 1754, và 1765
Cuối năm 1748,
Trịnh Doanh đi thăm các trại lính thấy khẩu đại bác có chữ Âu
Châu muốn biết xem là chữ gì liền ra lệnh tìm người Âu Châu. Cha
Paleceuk Dòng Tên được đưa đến để giải thích các chữ viết, đồng
thời khuyến khích chúa Trịnh tin dùng người Âu Châu làm cố vấn.
Ngay lúc đó Trịnh Doanh ra lệnh phóng thích 7 người Công Giáo
đang bị giam giữ ở Kinh Ðô và xin Cha Paleceuk tìm các chuyên
viên toán học và thiên văn. Bề trên Dòng Tên ở Macao sai Cha
Simonelli và 6 vị thừa sai với đầy đử dụng cụ thiên văn và toán
học đến. Trong thời gian này giáo dân bắt đầu tổ chức lễ lạy
công khai, nhiều quan trở lại đạo và lương dân thân thiện với
Công Giáo như trước.
Nhưng không biết
vì lẽ gì Trịnh Doanh lại đổi ý, ngày 3-7-1750 lập lại các lệnh
cấm đạo cũ. Năm 1751 khi đòan thừa sai từ Macao đến để làm việc
theo lời yêu cầu đã bị từ chối không cho phép xuống đất. Sau cha
Dòng Tên đã lẻn xuống được, còn cha trưởng đoàn phải trở về
Macao.
Ngày 26-10-1754,
Trịnh Doanh công bố một lệnh cấm đạo mới. Nội dung như sau: "Hội
đồng các quan truyền lệnh cho các huyện như sau: Ðạo 'Hoa Lang'
lầm lạc nghịch lại lý trí, mê hoặc lòng dân và còn truyền bá lan
rộng đạo lý sai lầm. Các năm trước hội đồng đã gửi các sắc lệnh
ngăn cấm để chặn sự xâm nhập của đạo này, nhưng vẫn còn có người
tiếp tục làm hư hại người khác. Vì vậy quan trấn các phủ huyện
phải bí mật điều tra. Nếu bắt được đạo trưởng thì phải giải họ
về kinh, các tín hữu thì phải trừng phạt, hoặc lưu đầy, hoặc tạp
dịch trong các chuồng thú vật, hoặc đánh đòn. Nếu các quan chểnh
mảng nhiệm vụ này sẽ bị trừng phát, ai nhiệt thành sẽ được trọng
thưởng".
Lệnh trên được bí
mật gửi cho các quan, nhưng khi các vị thừa sai biết được đã ra
lệnh ngưng các buổi hội họp, sửa đổi nhà thờ thành nhà ở, treo
cờ, dựng cây nêu... Còn các vị thừa sai thì tạm thời trốn tránh.
Kết quả Cha Ðóa bị bắt với 4 người nhà. Cha Cai và 4 người nhà
khác cũng bị bắt tại Bố Chính, các chủng sinh tại Thanh Hóa một
số bị bắt. Ðịa phận Ðông Ký có một thầy giảng bị bắt tại Xứ Bắc
và Cha Alonso dòng Ða Minh cũng bị bắt.
Ngày 15-9-1765,
Trịnh Doanh kết án một nhà sư và ra lệnh giải tán một số chùa
chiền, nhưng vì sợ dân chúng phản loạn cho là bắt đạo Phật nên
Trịnh Doanh ra lệnh cấm luôn cả đạo Công Giáo. Các vị thừa sai
chỉ nhắc đến những vụ bắt bớ do quan lại muốn làm tiền, không có
ghi lại sắc lệnh. Kết quả là Cha Orta người Ý thuộc Dòng Tên và
Cha Ðóa Dòng Ða Minh bị bắt tại Thanh Hóa. Ngoài ra Cha Gioan
Hiên và nhiều cha khác đi làm lễ Phục Sinh cũng bị bắt. Khi
Trịnh Doanh chết cuộc bắt bớ mới tạm yên.
Linh Mục
Francis Gil de Federich Tế
Ðứng đầu sổ 117
Thánh Tử Vì Ðạo Việt Nam là Cha Tế và Cha Ðậu, hai linh mục thừa
sai người Tây Ban Nha thuộc Dòng Ða Minh. Cha Tế có tên Tây Ban
Nha là Gil De Federich, sinh năm 1702 tại Tortosa trong một gia
đình đạo đức. Khi được rửa tội, cha mẹ đặt cho nhiều tên thánh
khác nhau, tên trong sổ bộ là Francis. Năm 15 tuổi, cậu Gil gia
nhập tu viện Ða-Minh tại Tortosa và năm sau, 1718, được tuyên
khấn. Thầy Gil tiếp tục học thần học và thụ phong linh mục năm
1727, lúc 25 tuổi.
Hai năm trước khi
làm linh mục, Cha Gil đã ghi tên xin đi sang tu viện của dòng ở
Phi Luật Tân nhưng bề trên không chấp nhận. Qua năm 1729, Cha
Gil lại xin một lần nữa, đơn của ngài được chuyển về Rôma để cứu
xét. Ý nguyện của cha được bề trên chấp thuận. Cha cùng với 24
người khác tới Manilla tháng 11-1730. Mặc dù đang cơn bắt đạo,
Cha Gil vẫn mong muốn được truyền giáo tại Trung Hoa hay Việt
Nam. Cha được bề trên gửi đi Bắc Kỳ và tới nơi ngày 28-8-1735.
Sau 4 tháng học
tiếng Việt tại Lục Thủy, Cha Gil được đặt cho một tên Việt Nam
là Tế, với nhiệm vụ coi sóc 40 họ đạo trong ba huyện Giao Thủy,
Chân Ðinh và Vụ Tiên thuộc trấn Xứ Nam. Tên mà bề trên đặt cho
ngài đã trở thành điềm báo cuộc tử đạo, tế hiến chính mạng sống
mình cho Thiên Chúa. Trong thời gian làm việc truyền giáo Cha Tế
tỏ ra rất nhiệt thành, đặc biệt về lòng bác ái. Mỗi khi có người
mời đi kẻ liệt, dù ốm đau hay nguy hiểm, ngài cũng đi ngay.
Ngày 3-8-1737, Cha
Tế làm lễ kính thánh Ða Minh tại Lục Thủy Hạ, đang khi còn cám
ơn thì có một toán người ập đến lục soát. Giáo dân không kịp
giúp cha chạy trốn. Cha bảo họ trốn đi, còn ngài thì ra nộp mình
với lòng tin tưởng là Thánh Giuse sẽ giúp. Ngài nói với bọn
người đến bắt: - "Các ông tìm ai? Chính tôi đây là người các ông
muốn."
Sư Tình ra lệnh
trói cha lại đem xuống thuyền. Tại bờ sông họ còn thấy mấy giáo
hữu liền bắt đem theo. Cha Tế nói với sư Tình: "Các ông đã bắt
tôi rồi, tại sao còn bắt giữ những người này? Xin hãy thả họ
ra".
Như một mệnh lệnh,
bọn sư Tình liền cởi trói và trả tự do cho mấy người giáo dân.
Sư Tình đem Cha Tế về giam tại nhà mình ở Thủy Nhai Thượng, chờ
giáo dân mang món tiền kếch sù đến chuộc. Sư Tình hỏi Cha Tế:
"Ngươi có sợ không?"
Ngài bình thản trả
lời: "Tôi không sợ mà chỉ lo cho giáo dân".
Ðể có thể bóc lột
số tiền của giáo dân, sư Tình làm cho họ hoảng sợ bằng cách sai
hai tên lính cầm giáo đi hai bên đến nhà giam trói ngài vào cột
và đặt bản án ngay bên cạnh như là tội nhân bị hành quyết. Một
lần khác ông cho điệu Cha Tế đi đến nhà hội của làng, cho nhiều
người giả làm triều đình xét xử. Cha Tế không chút sợ hãi, bình
thản lợi dụng cơ hội để giảng đạo cho lương dân. Con trai của sư
Tình là Tri Bá đến nhạo cười: "Tôi là một người Công Giáo xấu,
tên là Dominic, vụ của cha sẽ ổn thỏa với giá 500 lượng bạc".
Giáo dân thấy vậy
thì quyết định đi thẳng với quan trên bằng món tiền lớn hơn.
Quan tỉnh là người quỉ quyệt, muốn làm tiền cả đôi bên. Ông nhận
tiền của giáo dân, hứa sẽ thả Cha Tế trên đường đưa về phủ.
Chính quan đến nhà sư Tình để dẫn giải cha, đồng thời bắt cả cha
con đầy tớ sư Tình vì tội chứa chấp đạo trưởng. Quan phủ đã giải
các tù nhân về kinh đô để lấy công trạng.
Những ngày bị giam
giữ khổ sở và cuộc hành trình đã làm Cha Tế ốm nặng, quan phải
kiếm thuốc và cho phép người nhà của cha săn sóc. Ngày 23-8 họ
tới kinh đô Hà Nội. Sau đây là cuộc thẩm vấn của các quan: "Ông
có biết đạo Kitô bị cấm trong nước không? Sao còn đến đây?"
- "Tôi đến để giải
thoát các linh hồn khỏi hư mất".
- "Nếu vua ra lệnh chém đầu thì ông còn làm gì được?"
- "Tôi sẵn sàng chịu sự khổ đó".
Sau đó cha bị giao
cho lính canh, họ để cha nằm dưới đất cả lúc trời mưa. Một người
y tá Công Giáo từ Lục Thủy đến thăm cha, thấy vậy đi mua cho cha
một trái dưa để uống lấy sức. Các gia nhân tại phủ tỏ ra tử tế
và săn sóc cha. Ðể trả công, cha giảng đạo cho họ.
Tại đây cha viết
vội mấy lời gửi bề trên: "Con tin rằng Chúa đã để con bị sốt
nặng để chia sẻ với cuộc thương khó của Chúa. Những khốn khổ của
nhà tù con coi là nhỏ mọn. Thay vì buồn, con cảm thấy vui và sẵn
sàng đón nhận những cực khổ như là hồng ơn Chúa gửi đến cho
riêng con".
Ngày 30-8, cha
được chuyển sang ngục Ðông. Trên đường sang ngục Ðông, trẻ con
lấy cành tre làm thánh giá, ném dưới chân ngài để chế diễu. Cha
Tế chỉ sốt sắng lượm lên hôn kính. Tại ngục Ðông cha cũng chịu
nhiều khốn khó. Các tù nhân cũng tàn bạo với ngài. Tưởng chừng
ngài sắp chết, bà Kinh, một người Công Giáo thường săn sóc cha,
liền đi mời Cha Ngai, giả làm thầy thuốc và đút tiền để được vào
thăm cha. Mấy tên lính canh tù muốn làm tiền giáo hữu nên đeo
thêm gông và xích cho cha rồi bảo họ nếu muốn cha được miễn trừ
thì phải cho tiền. Khi cha khỏe lại đã cấm các giáo dân đừng làm
thế nữa.
Lính coi ngục làm
khó dễ, các giáo dân phải cậy nhờ một bà người lương tên là Gạo,
nhà ở gần đó, săn sóc cha. Sau này bà được ơn trở lại và rửa
tội, lấy tên thánh là Rosa. Trong lời khai trước ủy ban điều tra
phong chân phúc, bà đã nói: "Chị của tôi đã phải tha nợ cho mấy
tên lính để họ tử tế với cha và cho phép cha ra nhà. Lần khác
khi mang thức ăn cho cha họ đã không chịu cho tới khi tôi đưa
cho họ món tiền".
Việc to tát bà Gạo
có thể giúp cha là cung cấp giấy tờ viết thư và chuyển thư của
cha cho bề trên. Sau hai tháng bị giam cha được phép ra nhà bà
Gạo để dùng cơm, và tiếp xúc với giáo dân tại kinh đô. Suốt
trong 7 năm bị giam cầm, Cha Tế vẫn tiếp tục giúp các giáo dân.
Cuối tháng
10-1737, tòa án bắt đầu xét xử cha công khai. Cha bị dẫn đi, tay
mang xích, cổ đeo gông. Trên đường đi, trẻ con lại vất những
thánh giá bằng lá tre vào ngài và cười chế nhạo. Một đứa lớn hô
to: "Xem kìa, ông cha sẽ chối đạo để giữ cái đầu khỏi bị chém".
Cha Tế liền quay
mặt lại nhìn nó và nói: "Không đâu con, cha đã không và sẽ không
bao giờ chối bỏ đức tin đâu. Chỉ có chúng con mới làm những điều
trái nghịch là đi hành hạ người tù nhân ốm yếu không bao giờ làm
hại ai. Hơn nữa chúng con còn chế diễu thánh giá là dấu chỉ ơn
cứu rỗi cho mọi người".
Cha Tế và ba người
giáo dân cùng với sư Tình bị điệu ra trước tòa án. Quan án bắt
đầu thẩm vấn Cha Tế: "Ông bị bắt tại nhà của ai trong 4 người
này?"
- "Tại nhà sư
Tình. Tôi không hề vào nhà ba người kia".
- "Ông từ đâu đến?"
- "Từ Tây Ban Nha".
- "Ðã bao lâu ông ở tại Bắc Kỳ?"
- "Khoảng chừng hai năm".
- "Ai đã mang ông vào?"
- "Tôi không còn nhớ tên".
- "Vậy ông đã ở những đâu trong hai năm qua?"
- "Tôi không có nơi ở nhất định. Tôi thường đi từ nơi này sang
nơi khác".
- "Ai đã nộp ông cho tòa án này?"
- "Ông quan".
- "Ông quan đã bắt ông tại nhà ai?"
- "Tại nhà sư Tình".
- "Ông đã ở nhà ấy bao nhiêu ngày?"
- "Mười hay mười một ngày gì đó".
- "Ông có dậy đạo cho người ấy không?"
- "Không".
- "Vậy ông đã làm những gì?"
- "Tôi làm những việc không liên quan gì tới quan tòa cả".
Viên ký lục đã làm
sai lạc lời khai của ngài mà nói là cha đã ở nhà sư Tình hai
năm. Sau đó cha được dẫn về nhà tù và hôm sau lại bị dẫn đến
nhưng quan án lại cho ngài về tù vì là ngày lễ nghỉ. Trên đường
về, họ dẫn cha qua đền thờ tổ tiên của quan và bắt cha lạy. Cha
từ chối nên bị họ đánh đập bất tỉnh. Cha lên cơn sốt 15 ngày vì
những vết thương hành hạ. Sau đó giáo dân cho lính canh nhiều
tiền để cha được ở cả ngày đêm tại nhà bà Gạo. Khi khỏe lại, cha
liền bị dẫn đến tòa án.
Vào cuối năm theo
niên lịch Bắc Việt, các quan có thói quen giải quyết hết các vụ
kiện, nhưng năm đó vì có sứ Trung Hoa sang nên họ không xét vụ
của cha. Ðến tháng 10, một cha Việt Nam đến nhà bà Gạo dâng lễ.
Sau đó chính ngài xin bề trên gửi các đồ lễ đến để dâng lễ. Năm
ấy các quan viết án cho ngài như sau: Cha Tế bị bắt tại Xứ Ðông
và bị lên án chém đầu. Còn sư Tình và con trai bị án phát lưu
chăn voi cho chúa Trịnh 6 năm. Án được viết ngày 10-7-1738, vua
châu phê ngày 12 và ấn định ngày thi hành án lệnh là ngày 22-7.
Sư Tình bỏ tiền mua chuộc các quan để xét xử lại. Nhưng án không
thay đổi. Sư Tình tiếp tục kháng cáo và tìm ra được lẽ để thanh
minh.
Ngày 20-7-1739,
cha lại bị đem ra tòa lần nữa: "Dựa vào quyền gì mà ông đến nhà
sư Tình? Trước đó ông ở đâu?"
- "Tôi đến nước
này đã 4 năm, hai năm bị giam tù, hai năm khác thì đi nơi này
nơi nọ để rao giảng đạo Kitô. Còn nói đã đi những đâu thì tôi
không muốn nói".
- "Vậy những lời
khai năm trước là đúng?"
- "Những gì tôi đã
nói là đúng như vậy. Bây giờ tôi không nói gì thêm".
- "Ông là một
người phản bội, nói láo, bây giờ không muốn nói lại?"
- "Không đúng như
vậy, nhưng tôi không buộc phải khai lại".
Ngay lúc ấy, sư
Tình chụp cơ hội xin nói. Ông đã tóm lược lại các việc xẩy ra
nhưng bỏ hẳn phần cha Tế bị giam giữ tại nhà ông.
Ðể tránh rắc rối cho những người ở Lục Thủy Hạ, Cha Tế nói:
"Những gì tôi khai năm ngoái là thực và tôi không buộc phải khai
là sư Tình đã bắt tôi tại Lục Thủy Hạ. Bởi vì các ông chỉ muốn
trừng phạt những người đã tiếp tôi và thưởng công cho kẻ bắt
tôi. Ðiều ấy bất công và vô lý".
- "Như vậy chém
đầu ông cũng là nghịch công lý?"
- "Hiển nhiên là
như vậy. Nhưng nếu quí quan ra lệnh chém đầu tôi vì đức tin thì
tôi rất hài lòng".
Quan án ra lệnh
nếu Cha Tế không khai thêm sẽ cho đánh 30 đòn. Cha Tế muốn chịu
đòn hơn là nói gì thêm. Quan cho đặt thánh giá dưới đất rồi ra
lệnh cho mọi người đạp lên. Dù phản đối, họ cũng khiêng ngài
qua. Nhưng cha đã nhấc thánh giá lên và hôn kính. Sư Tình thì
lợi dụng cơ hội này để nhục mạ ảnh đạo, nhảy nhót trên tượng và
đồng thời tố cáo ngài còn giữ nhiều đồ đạo tại nhà tù. Trong
phiên xử hai hôm sau, ngày 22-7, quan ép buộc cha Tế cung khai
mấy người giáo dân, nhưng cha nhất định không chịu. Sau đó quan
liền hỏi về các ảnh đạo.
Quan cầm tượng
thánh giá lên hỏi: "Người trên thánh giá này là ai?"
- "Ðó là hình ảnh
của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, đã làm người và chịu chết trên
thánh giá để chuộc tội nhân loại".
- "Còn hình kia là gì?"
- "Ðó là ảnh Mẹ Thiên Chúa, đã cưu mang đấng chịu đóng đinh".
- "Người ta đi đâu sau khi chết?"
- "Khi chết rồi, xác ở dưới phần mộ, còn hồn thì hoặc lên trời
hoặc phải xuống địa ngục tùy theo công trạng trong đời sống".
- "Ðiều ông nói về linh hồn chỉ là tưởng tượng. Ai nói rằng sự
vật qua đi như thế?"
- "Thiên Chúa đã nói vậy".
- "Thật vậy ư? Ông đã nghe thấy tiếng Chúa chưa?"
- "Mặc dù không nghe chính Thiên Chúa nói, nhưng chắc chắn là
ngài đã dậy như vậy".
Một tên lính hầu
mang tới một cái gậy, đặt ngay trước mặt cha Tế, cha lại tưởng
họ đánh mình nên đưa đầu gối ra, nhưng quan lại nói: "Gậy không
phải để tra tấn. Ta ra lệnh cho ông cầm lấy và đánh vào những
tượng ảnh này".
Cha Tế rùng mình
vội cầm gậy vất đi thật xa. Tên hầu lại lấy về và đặt trước mặt
sư Tình. Ông liền cầm ngay lấy và giơ gậy đánh vào bức ảnh Ðức
Mẹ bằng ngà voi. Cha Tế chạy vội lại, dùng thân mình làm thuẫn
cản lại, lấy tay che lên đầu Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong ảnh
rồi nói: "Sư Tình, hãy đánh lên tay tôi".
Quan thấy vậy thì
cười và nói: "Các người Kitô bị lừa dối bởi những tượng ảnh
này".
Thế là có cuộc
giằng co giữa Cha Tế và sư Tình. Quan cho lệnh ngừng cuộc giằng
co lại và nói: "Thế thì tượng phải đau vì những cái đánh này lắm
nhỉ?"
- "Ðức Bà Maria và
Con của Ngài ở một nơi không còn đau đớn nữa. Nếu chúng tôi tôn
kính ảnh tượng này cũng chỉ vì đó là hình ảnh nhắc nhở chúng tôi
đến các Ngài".
Phiên tòa chấm
dứt. Tên lính canh ngục đòi tiền ngài để đưa cho tóan lính áp
giải. Một người giáo dân nói ngài chỉ nên đưa một phần ba. Vì
thế tên lính canh nghiệt ngã cấm mọi người đến thăm ngài trong
ba ngày. May nhờ có người lương mang gạo đến. Thấy sức khỏe ngài
yếu liệt, bề trên sai Cha Minh đến ban các bí tích cuối cho
ngài. Tuy nhiên Cha Tế lại khỏe lại.
Các quan thấy khó
giải quyết, không biết phải xử thế nào đối với ba người giáo dân
ở Lục Thủy Hạ. Vua cho một quan khác đến xử vụ kiện dai dẳng
này. Ngày 20-9, cha lại bị đưa ra trước tòa để tra hỏi: "Ông ở
nước này bao nhiêu năm rồi? Có phải ông bị bắt khi mới tới
không? Ông có rao giảng đạo Kitô không?"
- "Tôi đã ở đây
bốn năm và giảng đạo hai năm".
- "Có thật ông đã ở trong nhà sư Tình 10 ngày?"
- "Tôi đi đây đó để giảng đạo, nơi thì 10 ngày, nơi khác 15
ngày. Tôi chỉ ở nhà sư Tình có 10 ngày".
- "Ðạo đã bị cấm, tại sao ông còn đến đây?"
- "Vua chúa không có quyền cấm như thế, vì vua chúa không có
quyền tuyệt đối ra lệnh như ý thích".
- "Ông có học biết thiên văn không?"
- "Không".
Ngài bị đem ra đem
vào nhiều lần và hỏi đi hỏi lại để có bằng chứng là cha bị bắt
tại nhà mấy giáo dân, và như thế có lý do để tha sư Tình. Cha Tế
từ chối không nói gì thêm mà chỉ xin trả tự do cho các giáo dân.
Họ yêu cầu cha ký vào biên bản. Ðọc trong bản án thấy viết là bị
tố cáo vì rao giảng tà đạo, cha không chịu ký. Họ cho sửa lại là
đạo 'Hoa Lang' nghịch với luật, cha mới ký vào.
Thế rồi nội chiến
xẩy ra và người ta quên bẵng vụ án của ngài. Lúc đó Cha Tế là
người duy nhất có mặt ở Hà Nội để giúp giáo dân. Trong thời gian
bị giam tù, Cha Tế đã rửa tội được 122 người. Nội chiến kéo dài
ba năm. Một hôm chúa Trịnh chợt có ý muốn hỏi Cha Tế có cách nào
chấm dứt được loạn lạc, với ẩn ý muốn cha nói với người tây
phương giúp. Cuối tháng 9, cậu của vua cho lệnh đưa Cha Tế đến
và hỏi: "Tôi thấy đạo của cha hợp lý, những điều tôi nghe rất
phù hợp với sách tôi đã đọc. Chỉ có điều là đạo không chấp nhận
những tôn giáo khác. Ngày mai cha mang đến cho tôi xem cuốn sách
về đức tin Kitô để tôi thấu đáo và có thể nói với chúa Trịnh cho
cha. Cha cũng mang đến một học giả người Việt để có thể giải
nghĩa được các chữ Việt".
Trở lại nhà giam,
cha được giáo dân cho biết là quan chỉ muốn xem đạo có cách nào
diệt được giặc không thôi. Ngày hôm sau, cha viết thư cho ông
hoàng: "Theo đức tin của chúng tôi, chỉ có một phương thế duy
nhất chữa trị các cái xấu đó là cầu xin Thiên Chúa cho hòa bình
và hứa rằng chính quyền sẽ không bao giờ bắt bớ đạo thật nữa.
Nếu vua muốn chấm dứt chiến tranh thì hãy thôi bắt bớ giáo dân
và đạo thật, vì đấy chính là nguồn gốc của mọi sự dữ trong
nước". Ông hoàng có nói lại với ba quan và họ hứa sẽ nói với
chúa Trịnh để cho phép tự do hành đạo. Ngay lúc đó có tin đồn là
giáo dân tỉnh Nam đi theo giặc, dự tính trên lại rơi vào tình
trạng cũ. Riêng giáo dân Hà Nội nhất định chuộc cha ra bằng mọi
cách. Họ đem tiền đến bà dì của chúa Trịnh để xin trả tự do cho
cha. Ðọc bản khiếu nại, Cha Tế không hài lòng về lời lẽ nói cha
chỉ là thương gia bị gán ghép tội theo đạo Kitô.... Suốt trong
năm đó cha rửa tội thêm được 31 người lớn và 23 trẻ em.
Năm 1744, hồ sơ
của cha được xét lại và họ giam cha ngặt hơn. Ngày 3-3-1744, cha
và 4 giáo dân được đưa ra tòa án. Trên đường đi, viên ký lục đòi
lấy cỗ tràng hạt của cha. Tại tòa án, các quan xem xét cỗ tràng
hạt rất kỹ lưỡng. Quan hỏi hai ảnh mắc vào đó là gì. Cha thưa là
hình hai vị tử vì đạo. Quan bắt ép cha dầy đạp tràng hạt dưới
chân. Cha đã mạnh mẽ nói là không khi nào cha làm điều lầm lỗi
ấy. Lúc ấy quan hỏi sư Tình có làm điều ấy không? Sư Tình chỉ
chờ có thế đã vội vã cầm lấy tràng hạt ném xuống đất, sửa soạn
đạp lên, tức thì Cha Tế lăn xả vào để lấy lại. Một tên lính hầu
túm lấy tóc cha lôi ra. Không làm gì được, Cha Tế hét lên: "Tại
sao các ngươi bách hại đạo Chúa Kitô? Chính các ngươi là căn cớ
của bao nhiêu tai họa giáng xuống trên nước này".
Các quan liền viết
án xử trảm cha Tế, còn các giáo dân được trả tự do, cha con sư
Tình được tha bổng. Cha Tế được đưa về nhà tù, lòng đầy niềm hy
vọng giờ lãnh triều thiên tử đạo đã tới gần.
Ngày 30-5-1744,
lính canh áp giải một tù nhân khác, đó là Cha Ðậu, người cùng
Dòng với Cha Tế. Hai người lính dũng cảm của đức tin hân hoan
được gặp nhau, nâng đỡ nhau bằng các bí tích và cầu nguyện.
Trong hai năm ấy cha rửa tội được 32 người lớn và 41 trẻ em.
Tháng 8 năm sau vì
có hạn hán nên chúa Trịnh cho rước Phật Bà Quan Âm, đồng thời ân
xá cho nhiều tù nhân, nhưng vẫn giam giữ hai cha trong tù. Lợi
dụng thời gian này, hai cha biến nhà tù thành nơi giảng đạo.
Giáo dân lại nói với cha về đề nghị của quan cai ngục là sẽ trả
tự do cho cha bằng giá tiền mua chuộc. Cha Tế cương quyết không
để cho giáo dân phải tốn một xu.
Một tín hữu báo
tin là các quan đã làm án ngày 19-1-1745, ngày 21 sẽ công bố, và
ngày hôm sau hành quyết. Giáo dân tính cử đại diện đến gặp chúa
Trịnh. Cha Tế rất buồn nói với các thầy giảng: "Chúng ta phải
khuyên bảo giáo dân trở lại và trung thành với đức tin, nếu
trong hoàn cảnh này chúng ta tỏ ra khiếp sợ để cho họ sửa án và
mua chuộc mạng sống bằng tiền bạc thì lương dân họ sẽ thêm tin
vào đạo của họ hơn và giáo dân sẽ không còn muốn chịu khổ vì đức
tin nữa".
Vì vậy cha truyền
lệnh cho họ hủy bỏ toan tính đó. Dân chúng rất đau buồn, nhưng
cha Tế lại vui mừng hớn hở. Ngài dùng những ngày còn lại để cầu
nguyện và sửa soạn tâm hồn. Sau khi lần hạt chung với họ lần
cuối, cha khuyên nhủ: "Anh chị em quí mến, cũng như Chúa Kitô
trong bữa tiệc ly, tôi muốn khuyên anh chị em theo lời của Chúa,
anh chị em hãy yêu thương nhau như ruột thịt, hãy vững mạnh
trong đức tin mà anh chị em tuyên xưng và hãy sẵn sàng chịu mọi
sự khó và nhất là đặt niềm cậy trông vào một Chúa mà thôi. Hãy
ước ao những sự trên trời và hãy khinh chê những của cải vui
sướng chóng qua đời này".
Mọi người cúi mình
hôn xiềng xích của ngài. Ngài lại nói với họ: "Tử đạo là một ơn
đặc biệt do Chúa ban nhưng không, chứ không phải do công trạng
hay xứng đáng gì".
Khoảng ba giờ
sáng, hai cha dâng lễ, rồi đến chào các lính coi tù cũng như các
bạn tù. Giáo dân được phép vào rất đông để thăm cha lần cuối.
Cha Ðậu không được chung một vinh dự nhưng đã xin quan cho theo
ra tới pháp trường. Theo lẽ các tù nhân khi đi ra nơi hành quyết
thường được dẫn qua phủ chúa để có thể kháng cáo lần chót. Lợi
dụng cơ hội này giáo dân làm một bản kiến nghị nhờ Cha Ðậu mang
theo đưa cho quan khi tới phủ chúa. Mặc dù Cha Tế không đồng ý
nhưng Cha Ðậu vẫn làm theo ý của giáo dân.
Cha Tế hân hoan đi
đầu vì được giống Chúa Kitô. Trong đám tù nhân có người xin cha
tha tội. Ði ngang qua phủ chúa, Cha Ðậu liền đưa bản kiến nghị.
Chúa Trịnh thấy Cha Ðậu dám bạo gan như thế thì nổi giận ra lệnh
xử trảm ngài luôn một lúc với Cha Tế. Khoảng sau trưa, đoàn
người đến Ðồng Mơ, nơi hành quyết. Vừa tới nơi, hai cha quì
xuống hôn mảnh đất. Cha Tế vì yếu sức nên ngồi xuống đất chờ
đợi, trong khi lính sửa soạn việc hành quyết. Hai cha nói giáo
dân cho mỗi người lính đao phủ một số tiền. Hằng ngàn người im
lặng đứng xung quanh. Quan giám sát lên tiếng: "Cụ Tế, tôi rất
kính trọng cụ và rất đau buồn phải làm việc này như quan án đã
ra lệnh, xin cụ hiểu cho, tôi không làm gì khác hơn được. Xin cụ
quì thẳng lên để tôi trói vào cọc".
Giây và xích ở tay
chân được cởi ra. Hai tên lính cầm gươm đồng loạt chém đầu hai
vị tử đạo. Hôm ấy là ngày thứ Sáu, 22-1-1745.
Thông thường mỗi
khi có vụ xử tử, lúc chém đầu mọi người chạy mất vì sợ hồn kẻ
chết nhập vào, nhưng lần này trái lại họ đến gần hơn và ngay sau
đó tuốn vào thấm máu đào, lấy những vật dụng và xiềng xích của
hai vị làm kỉ niệm. Giáo dân phải canh chừng để không ai lấy
trộm thi thể hai đấng thánh. Tối hôm đó, Cha Phêrô Xavier tắm
rửa xác các đấng và an táng tại Lục Thủy Hạ, mặc dầu các xứ khác
như xứ Kẻ Bùi, Trung Linh, và Trung Lễ đòi quyền được cất xác
các ngài. Một tuần sau, mộ của các ngài được mở ra để táng trong
nhà thờ theo lệnh của đức giám mục, nhưng lạ thay, xác các ngài
không bốc mùi thối gì, giáo dân còn ngửi thấy thoang thoảng một
mùi thơm lạ lùng.
Ngày 20-05-1906,
các Ngài được Đức Piô X suy tôn lên bậc chân phước. Ngày
19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn lên hàng Hiển Thánh.
(ST)
Trường thi tử Đạo.
Cuộc tử đạo linh mục Federich Tế
Tại Việt Nam phải kể đầu tiên
Mười lăm tuổi nhập tu liền
Thụ phong linh mục qua miền nước Phi
Thừa sai Pháp xin đi rao giảng
Nhưng bề trên ngăn cản không cho
Rôma thuyên chuyển thăm dò
Nơi đây cứu xét thuận cho lên đường
Cha được gởi quê hương miền Bắc
Nước Việt Nam dìu dắt đoàn chiên
Ngài lo tiếng Việt học liền
Ở làng Lục Thủy thuộc miền tỉnh Nam
Cùng Cha Tế cộng đoàn dâng lễ
Ðang cám ơn như thể chia tay
Toán người ập đến bao vây
Xông vào lục soát chốn này hung hăng
Cha liền bảo thưa rằng chạy trốn
Còn phần Cha khiêm tốn nạp mình
Giuse khẩn nguyện cầu kinh
Xin Ngài phù hộ an bình cho Cha
Nhìn bọn chúng Ngài đà liền hỏi
Ði tìm ai Người nói ta đây
Sư Tình ra lệnh lấy giây
Bắt Cha trói lại đưa ngay xuống thuyền
Mấy giáo hữu theo liền đứng ngó
Tại bờ sông chúng nó bắt luôn
Lòng Cha Tế rất u buồn
Bắt tôi là đủ tha luôn mấy người
Như mệnh lệnh chúng thời cởi trói
Trả tự do tiếng nói Sư Tình
Ðem Cha Tế giam một mình
Thủy Nhai Thượng để Sư Tình hỏi Cha
Ngươi bị bắt gặp ta có sợ
Ngài trả lời giúp đỡ giáo dân
Riêng ta vì Chúa đâu cần
Sư Tình sai lính tay cầm gươm đao
Cột nhà hội trói vào Cha Tế
Án tử hình chúng để ngay bên
Triều đình ban lệnh nói lên
Nhưng Cha đâu sợ ngày đêm rao truyền
Chúng móc nối đòi tiền để chuộc
Thả Cha ra bắt buộc khó khăn
Năm trăm lượng đổi Chủ chăn
Giáo dân thấy vậy thưa rằng quan trên
Cử đại diện thưa lên thượng đỉnh
Quỷ quyệt thay sẵn tính bạo tàn
Cấp cao lại quá tham lam
Thả câu nước đục liên can Sư Tình
Giữ đạo trưởng nhà mình trái phép
Phải lo tiền khỏi ghép tội oan
Quan trên lợi cả đôi đàng
Kinh đô đem nộp Thượng Hoàng thưởng công
Tội Cha Tế đeo gông khổ cực
Tại trại giam nóng nực khổ đau
Quan lo tìm thuốc chữa mau
Người nhà săn sóc ngõ hầu hỏi cung
Tại Phủ Chúa quyền dùng kháng cáo
Cơ hội này loan báo giáo dân
Cử Cha Ðậu đóng góp phần
Ði qua Phủ Chúa tới gần đưa Quan
Chúa Trịnh thấy Cha gan can đảm
Tại Ðồng Mơ xử trảm hai Cha
Pháp trường giáo hữu gần xa
Ðọc kinh tin kính tiễn Cha lên đường
Linh mục Tế sinh năm Nhâm Ngọ (1702)
Tại Tostosa nước họ (Tây) Ban Nha
Ất Sửu (1745) tử đạo nước ta
Bính Ngọ (1906) phong thánh hoan ca Nước Trời
Lời bất hủ: Cha trả lời quan tra hỏi: "Chẳng ai có quyền
cấm giảng đạo Thiên Chúa đã truyền loan báo cho mọi dân mọi
nước. Ai cấm, tức là cướp quyền của Thiên Chúa". |