Vay mượn để giúp
người
"Nếu bà và các con không cho tôi lấy của nhà giúp người, tôi sẽ
đi vay mượn hoặc làm thuê, kiếm tiền giúp họ". Đó là một câu nói
đầy cương quyết nhưng chân thành của quan vệ uý, cũng là ông
lang và là ông trùm : Ông Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh. Câu nói đó cho
chúng tôi thấy và hiểu về một cuộc đời 72 năm phục vụ con người
để phục vụ Thiên Chúa.
Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh sinh năm 1768 tại làng Mỹ Hương, huyện Lệ
Thủy tỉnh Quảng Bình. Cha là Antôn Nguyễn Hữu Hiệp, mẹ là
Mađalêna Lộc. Theo gia phả ông Quỳnh là con cháu đời 15 của đệ
nhất Công Thần Nguyễn Trãi (1380-1442). Vì là con thứ năm, nên
thường được gọi là Năm Quỳnh.
Thời niên thiếu, cậu xin làm đệ tử Đức Cha Labartette Bình có ý
học làm linh mục, nhưng vì hai người anh trai cũng xin đi tu nên
gia đình gọi cậu về để nối dõi tông đường. Năm 1800, theo việc
cắt cử của làng xã, anh gia nhập đội quân của Nguyễn Ánh, góp
phần chiến thắng quân Cảnh Thịnh và được thăng chức Vệ Uý. Đến
khi đất nước đã thống nhất (1802), Gia Long lên ngôi, ông thấy
đời quân ngũ không thích hợp, liền xin giải ngũ. Trở về quê nhà,
ông mua một thửa đất canh tác và buôn bán thêm để sinh sống.
Đồng thời ông dành nhiều giờ đọc thêm nghề thuốc, và dần dần trở
thành một lương y nổi tiếng khắp vùng. Nhờ đó kinh tế gia đình
ngày càng khá giả hơn.
Gia đình, xã hội và
giáo hội
Thế nhưng đối với ông Quỳnh, tài sản khả năng Chúa ban cho là để
phục vụ mọi người, nên thay vì thu tích cho bản thân, ông quan
tâm phục vụ dân nghèo một cách tận tình. Đối với họ ông chữa
bệnh miễn phí, săn sóc và đôi khi còn tặng họ thêm tiền để làm
vốn nữa. Khi vợ con lên tiếng kỳ kèo, ông trả lời rằng : "Tôi
chưa thấy những ai hay giúp đỡ người nghèo khó mà túng bấn bao
giờ. Kinh thánh chẳng dạy chúng ta phải coi họ như chi thể của
Chúa đó sao ? Chúa đã cho chúng ta sống tất sẽ quan phòng cho ta
đủ dùng".
Khi các con khôn lớn, ông nói với chúng : "Cha đã nuôi dưỡng các
con từ nhỏ, nay đã lớn khôn, các con sẽ lo tất cả cho gia đình.
Cha muốn để dành tiền bán thuốc để chia sẻ với bà con nghèo khổ"
Lòng thương người của ông được biểu hiện rõ rệt hơn khi làng ông
gặp thời kỳ dịch tả. Ông bỏ ra cả hàng trăm quan tiền để phát
thuốc nuôi dưỡng và chăm sóc các bệnh nhân cách tận tuỵ quên
mình. Thế nhưng tinh thần bác ái Kitô giáo đòi ông phải đi xa
hơn một bước nữa. Ông vâng lời Đức Cha Labartette Bình dạy giáo
lý trong hạt. Để phục vụ con người một cách trọn vẹn hơn cả xác
lẫn hồn, ông Năm Quỳnh nhận lời làng Mỹ Hương giữ chức trùm
trưởng.
Trong thời cấm đạo các linh mục tu sĩ phải rút vào bóng tối, vai
trò của những người như ông rất cần thiết. Từ nay nhà ông biến
thành lớp giáo lý trong hạt, thành nơi tiếp nhận các thừa sai và
giáo sĩ. Từ nay ông đứng ra điều khiển tổ chức mọi sinh hoạt
kinh nguyện, tang lễ và bác ái trong vùng. Tuổi càng cao, ông
càng sắp xếp công việc một cách trọn vẹn và chín chắn hơn, do đó
ông càng được mọi người tin phục. Điều đáng lưu tâm là dầu bận
rộn với công việc tông đồ, ông vẫn khéo léo chăm sóc dạy dỗ con
cái sống Tin Mừng. Cô gái lớn gia nhập dòng mến Thánh Giá, sau
làm bà nhất toàn thể dòng mến Thánh Giá giáo phận. Những người
con khác cũng theo gương ông: trung kiên với niềm tin, và cùng
với ông quên lợi riêng để lo cho công ích.
Hoa quả của đức tin
Năm 1838, vua Minh Mạng ra lệnh truy nã linh mục thừa sai
Candalh Kim. Ông Quỳnh thân hành đưa cha lên Kim Sen, một trang
trại cũ của tổ tiên mình, và đem theo một số sách vở cũ, ảng
tượng của xứ Mỹ Hương. Thấy ông đi vắng lâu ngày, quan sai lính
đến nhà ông khám xét. Họ lôi các đầy tớ ra đánh đập tra khảo,
một người sợ quá đã khai ra chỗ ở của chủ. Khi đó quan định bắt
luôn bà Quỳnh và hai cô con gái út, một cô 14 tuổi, một cô 10
tuổi đang ở nhà. Quan cưỡng bức ba mẹ con xuất giáo nhưng không
ai tuân lệnh. Tức giận quan cho lính đánh vào chân hai đứa bé để
ép buộc bước qua Thánh Giá, hai cô vẫn không chịu khuất phục.
Đám lính liền xông đến lôi kéo hai chị em bứơc qua. Dĩ nhiên với
tuổi nhỏ sức yếu, hai cô bé không thể chống cưỡng lại được,
nhưng một mực hai cô bé kêu khóc mình bị ép buộc, chứ lòng luôn
luôn tôn kính Thánh Giá. Quan không dấu được sự thán phục tấm
lòng son sắt, và đã tha cho cả ba mẹ con.
Tiếp đó quân lính đến vây trại Kim Sen. Sau khi bắt được ông
Quỳnh và thâu được một số sách đạo, họ liền áp giải ông về Đồng
Hới. Giữa đường ông nhắn tin một người con kín đáo đến gặp và
hối lộ cho lính 50 quan tiền để đốt sổ ghi tên những người tín
hữu trong xứ.
Tại trại giam Đồng Hới, ông Quỳnh vui mừng vì gặp được linh mục
thừa sai Borie Cao, cha Điểm, cha Khoa cùng thày Tự. Nhiều lần
ông cũng bị tra tấn chung với các vị ấy. Nhưng bao giờ ông cũng
tuyên xưng: "Thà chết không thà chối Chúa, dù chỉ trong giây
lát". Có lần quan cho lính lôi ông qua Thánh Giá, ôn liền lớn
tiếng phản kháng rằng : "Việc này do quan lớn làm, nếu có tội là
quan phạm tội, chứ không phải tôi". Câu nói đó làm quan bực mình
truyền đóng gông giải ông về ngục. Mấy bữa sau quan hỏi cha Cao
tại sao ông Năm lại cứng cổ đến thế. Vị thừa sai trả lời: "Các
giáo hữu bước qua Thánh Giá vì họ không hiểu rõ giáo lý và nhát
gan, còn ông Năm đã am tường lẽ đạo, lại mạnh mẽ đức tin, quan
lớn cưỡng bách mấy cũng vô ích, chẳng có lợi gì đâu". Thất vọng
quan gởi án về kinh đô. Đức Cha Cao bị án trảm quyết (chặt đầu),
hai cha Điểm, cha Khoa thì bị kết án xử giảo ngay, còn thày Tự
và ông Antôn cũng bị xử giảo nhưng "giam hậu", nghĩa là lệnh xử
sẽ ban hành sau.
Thời gian trôi qua quá nhanh thấm thoát ông Quỳnh và Thày Tự đã
giam hai năm tròn. Trong thời gian đó quan sốt ruột gởi sớ về
kinh ba bốn lần xin xử tử, nhưng vua Minh Mạng cứ trì hoãn, viết
thư khuyên quan quân cứ từ từ kiên nhẫn. Trong một lá thư gởi về
hội Thừa Sai, cha Miche Mịch giải thích lý do như sau:
"Ông Antôn quen biết nhiều các quan, lại từng chữa bệnh cho
nhiều vị quan nữa. Rất nhiều người biết đến nhân đức và kiến
thức của ông nên trọng nể. Do đó, thái độ của ông có tầm ảnh
hưởng lớn trong dân. Đối với họ, cướp được con mồi lớn như thế
từ tay Đức Giêsu là một chiến thắng lớn lao. Thế nên chẳng lạ gì
"hỏa ngục" phải tìm trăm nghìn phương kế để dành lại phần thắng
sắp mất".
Phần ông Quỳnh dù đã 72 tuổi, vẫn biểu lộ đức can đảm và nhẫn
nại đáng khâm phục. Suốt ngày ông lo đọc kinh cầu nguyện, như
mọi giáo hữu ở ngoài, ông giữ chay và yêu thương giúp đỡ mọi
người. Nghề lang y của ông vẫn có cơ hội dùng đến, có lần ông
chữa cho một viên quan ở Đồng Hới, và nhất là chữa bệnh cho các
bạn tù đồng số phận.
Lời trăn trối sau
cùng
Thấy thời gian cũng không làm nản lòng ông Quỳnh, vua Minh Mạng
chấp thuận cho quan tỉnh Quảng Bình xử giảo ông ngày 10-07-1840.
Bản tường trình cuối cùng của vị quan có nhiệm vụ xét xử các
ngài: "Hạ thần Nguyễn Xuân Quang, quan án tỉnh Quảng Bình, thừa
hành theo lệnh của Hoàng Thượng xin tấu trình rằng: Vào tháng 9
năm Minh Mệnh thứ 19, quan tổng đốc có giao nộp một bản án nói
rằng đã bắt được tên Nguyễn Khắc Tự, đồ đệ của Thừa Sai Cao (Cha
Borie), và một người nữa tên là Nguyễn Hữu Năm đã thú nhận tội
cất giấu sách đạo. Quan án Phan Trư đã báo cáo như sau: Nguyễn
Hữu Năm có tội vì cất giấu sách đạo, không chịu đạp ảnh và cũng
không chịu bỏ đạo. Không phải là đạo trưởng nhưng hắn cũng cứng
đầu và có tội như đạo trưởng Khoa và Ðiểm. Vì thế hắn phải xử án
chém đầu. Nhưng án này đã được đổi lại ngày 28-11-1838. Còn về
tên Nguyễn Khắc Tự giúp việc cho Thừa Sai Cao, đã không chịu đạp
ảnh và thuộc hạng cố chấp và bất trị. Vì vậy thần kết án phải
đòn 100 roi và lưu đầy xa ba ngàn dặm, tức là đi Phú Yên, khắc
vào má bên trái hai chữ 'Tả Ðạo’ và má bên phải hai chữ 'Phú
Yên'. Tờ trình của quan án Phan Trư đã được châu phê như sau:
Tên Nguyễn Hữu Năm đã cất giấu sách đạo, còn tên Nguyễn Khắc Tự
đã không biết hổ thẹn khi giúp việc cho tên mọi rợ (ám chỉ Cố
Cao) và cố chấp không đạp ảnh. Hiển nhiên cả hai tên phải xếp
vào hạng cố chấp và bất trị. Mặc dù chúng không phải là đạo
trưởng, nhưng chúng cũng không kém mù quáng và cố chấp, và vì
vậy phải liệt chúng vào số những người đáng ghét. Vậy cả hai
phải bị xử giảo giam hậu. Cứ thế mà thi hành.
Năm sau tức là Minh Mệnh nguyên niên thứ 20, theo lệnh Hoàng
Thượng hạ thần lại đòi hai tên Nguyễn Hữu Năm và Nguyễn Khắc Tự
ra trước sảnh đường hai ba lần, khuyên nhủ họ thức tỉnh trở về
đường ngay. Nhưng chúng vẫn cố chấp như trước, không chịu đạp
ảnh. Thần xin lập tờ bá cáo tâu trình Hoàng Thượng: Quả thật hai
tên Kitô này không phải là linh mục nhưng mù quáng và cố chấp
thật đáng ghét. Thần nghĩ không còn lý gì mà phải giam giữ họ
trong tù nữa. Ðó là tờ trình của thần, nhưng các thượng quan
trong tòa Tam Pháp lại xét rằng hai tên này phải xử giảo ngay.
Ðến tháng 10 thần lại nhận được thư của tòa Tam Pháp truyền rằng
theo lệnh của Hoàng Thượng phải hoãn lại việc hành quyết và
triệu tập hội đồng hàng tỉnh, thúc ép họ trong tòa xem có hối
cải không, rồi trình lại tất cả sự việc và chờ lệnh. Theo lệnh
vừa nói, thần lại gọi hai tên tín đồ Kitô ra trước tòa, khuyên
bảo và ra lệnh đạp ảnh, từ bỏ cố chấp. Chúng vẫn cương quyết
không tuân lệnh. Chứng tỏ chúng vẫn chìm đắm trong u mê mù
quáng. Vì vậy thần lập tờ trình này để trông thánh chỉ của Hoàng
Thượng".
Lệnh cuối cùng của Vua Minh Mệnh: "Chúng tôi, Võ Xuân Cẩn, Bùi
Ngọc Quí và Ðinh Văn Huy, vâng theo lệnh Hoàng Thượng, đã xét tờ
trình của quan vào ngày 21-5. Chúng tôi truyền lệnh như sau: Tên
Nguyễn Hữu Năm và Nguyễn Khắc Tự theo tà đạo, tội đáng chết.
Nhưng vì chúng thuộc hạng lê dân ngu dốt và vì lòng nhân từ của
Hoàng Thượng không muốn đối xử cay nghiệt nên đã không ngừng ra
lệnh cho các quan phải khuyên nhủ chúng sửa đổi để được ơn khoan
hồng. Thế nhưng hai tên tội phạm vẫn ngụp lặn trong u mê mù
quáng và cố chấp không chịu đạp ảnh. Vì vậy chúng đã tự chuốc
lấy án chết. Vậy hai tội phạm phải bị xử giảo không trì hoãn nữa
để cái chết của chúng răn bảo những kẻ còn cố chấp không biết tự
cải hóạ Cứ thế mà thi hành".
Khoảng 100 binh lính dẫn ông ra pháp trường chung với thày Tự.
Đến nơi hai vị hỏi chỗ xử Đức Cha Cao và hai linh mục Khoa và
Điểm năm trước, rồi dừng lại đúng chỗ đó mà cầu nguyện : "Lạy
Chúa xin tạ ơn Chúa cho con được ân phúc như các ngài…" Nguyện
cầu xong, ngồi xuống, ông Quỳnh bình tĩnh chậm rãi hút hết điếu
thuốc được quan trao cho.
Hai người con đến từ giã, ông nhắc họ qua giã biệt thấy Tự, xin
thày về bên Chúa nhớ khẩn cầu cho các con. Thế rồi ông nói những
lời sau cùng : "Cha gởi lời chào các chức sắc và anh em giáo hữu
Mỹ Hương. Cầu chúc mọi người bình an, trung thành giữ đạo. Hãy
yêu thương nhau và sống đạo đức, các con sẽ gặp lại cha trên
Thiên Đường"
Nói xong ông nằm xuống trên chiếu trải sẵn, ông quỳnh giang tay
ra nói : "Xưa Chúa cũng chịu giang tay như thế này để chịu đóng
đinh". Quân lính tròng dây qua cổ và giữa tiếng thanh la vang
rền. Họ mạnh tay xiết chặt hai đầu dây, đưa người tôi trung của
Đức Kitô về hưởng hạnh phúc trường sinh.
Đức Lêo XIII suy tôn ông Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh lên bậc chân
phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy
tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Ngày nay mọi người vẫn còn cảm kích với hai câu thơ khắc trên
bia mộ ông Quỳnh ở xứ Kim Sen, nơi thi hài ông được an táng với
tổ tiên dòng họ :
"Nghĩa khí nêu cao trên đất nước,
Oai linh phù hộ khắp non sông"
Trường thi tử đạo
Antôn Quỳnh sinh năm Mậu Tý (1768)
Làng Mỹ Hương tỉnh lỵ Quảng Bình
Hai anh tu học chủng sinh
Mẹ Cha bắt lập gia đình bản thân
Khi tới tuổi vua cần bắt lính
Gia nhập vào có tính hiên ngang
Phú Xuân giặc giã dẹp tan
Anh thật can đảm phong hàm chức cai
Hết loạn lạc anh khai xuất ngũ
Về gia đình bạn rủ học nghề
Bán buôn làm thuốc làm thuê
Mát tay thầy thuốc, hết chê tiếng đồn
Coi người bệnh sớm hôm thăm viếng
Với tình thương thực hiện lòng nhân
Tiền bạc bác ái ân cần
Chỉ lo giúp đỡ xa gần bệnh nhân
Làng Mỹ Hương đang cần trùm trưởng
Ðã chọn ông trọng thưởng công đầu
Ðức cha để ý ông lâu
Muốn phong Thầy giảng, phép mầu cho ông
Vua Minh Mệnh tấn công bắt đạo
Rất gắt gao xục xạo khắp nơi
Thừa sai chạy trốn tơi bời
Việt Nam đạo trưởng, cũng thời trốn chui
Cố Kim sai tới lui làng cũ
Lấy đồ dùng, ông Dụ gia nhân
Lính liền chận lại cầm chân
Trùm Quỳnh dấu Cố, xa gần nơi đâu
Ông Dụ chối, hồi lâu thú nhận
Có đồ đạo ở tận Kim Sen
Quân quan vội vã đuốc đèn
Bao người có mặt, quan bèn bắt ngay
Người con cả đem ngay tiền chuộc
Ðược tha ra chỉ buộc Trùm Năm
Chuyển về Ðồng Hới giam cầm
Giải đi khám lớn, trung tâm nhốt tù
Tại khám lớn là khu đạo trưởng
Cùng Thừa sai được hưởng xiềng gông
Nơi đây nhốt cũng khá đông
Bao người thăm viếng, cộng đồng giáo dân
Quan Lệ Thủy lại gần tra hỏi
Ông Trùm Năm chỉ nói mấy cha
Bắt giam bị nhốt trong nhà
Không khai vị khác, thật là khôn ngoan
Ông bị tra dã man khổ cực
Nhưng vững lòng nhất mực không khai
Quan bộ tức giận tát tai
Ông không quá khóa, quan sai lính liền
Khiêng qua ảnh, buồn phiền ông nói
Ðó quan làm theo lối bạo quyền
Trước mặt Chúa, tôi bình yên
Lòng tôi kiên vững, một niềm đức tin
Con ông Năm đã tìm đến báo
Cho hai vị tử đạo biết ngay
Trối trăn mọi việc trao tay
Nhà tù đóng cửa chẳng tày tiếp ai
Riêng hai vị kêu nài khẩn nguyện
Ra pháp trường trực diện sẵn sàng
Lý hình hống hách gươm mang
Tay vung một nhát nhẹ nhàng đầu rơi
Quan cho phép vào thời lấy xác
Ðem về chôn phó thác nghĩa trang
Mồ êm mả ấm Nghệ An
Hồn về Thiên quốc Chúa ban phúc lành
Phúc tử đạo ghi danh Canh Tý (1840)
Một danh y thiện chí thương người
Sáng danh Chúa cả trên Trời
Suy tôn Canh Tý (1900) tuyệt vời thánh nhân
Lời bất hủ: Ông tuyên xưng đức tin trước các quan. "Thà
chết không thà chối đạo, dù chỉ là trong giây lát". Quan cho
lính lôi ông qua Thập giá, ông lớn tiếng phản kháng: "Việc này
do quan lớn làm, nếu có tội là quan phạm tội, chứ không phải
tôi". Thánh nhân khuyên các con: "Cha đã nuôi dưỡng các con từ
nhỏ, nay đã lớn khôn, các con sẽ lo tất cả cho gia đình. Cha
muốn dành tiền bán thuốc để chia sẻ với bà con nghèo khó". |