Một cuộc
sống bi hùng.
Nếu so sánh những
cuộc tử đạo như những vở bi hùng kịch thì cuộc tử đạo của thánh
Phanxucô Jaccard Phan là một trong những bi hùng kịch hùng tráng
nhất : Mười năm tù khi rộng khi ngặt, với hai mươi tháng tù đày
gian khổ và ba án tử hình. Giữa những khổ ải đó, nổi bật lên
chân dung một người hùng quả cảm. Ngài đã chiến thắng được đói
khát và sốt rét, đã trung thành tuyệt đối với chân lý của Tin
Mừng là tha thứ và phục vụ kẻ làm hại mình. Gan lì trước nghịch
cảnh, từ chối mọi tiện nghi, như nhân xét của Đức cha Cuénot Thể
: "con người không còn gì để mất đó, đã luôn tiến về phía trước
để chinh phục tha nhân".
Chí khí
chàng nông dân
Chào đời ngày
06.09.1799 tại Onion thuộc miền Savoie nước Pháp, trong một gia
đình nông dân nghèo, nhưng đạo đức, cậu Phanxicô Jaccard thủơ
nhỏ ham chơi hơn là học. Còn gì lý thú bằng chạy nhảy giữa cánh
đồng xanh tươi bát ngát. Khi được cha mẹ gởi vào chủng viện
Mélan, cậu Jaccard luôn là học sinh "đội sổ" nên đâm ra chán nản
và trốn về gia đình. Nhưng sau, nhờ bạn bè và thân nhân khích
lệ, đàng khác vì ước muốn làm linh mục, cậu xin trở lại chủng
viện, cậu hứa với mọi người sẽ cố gắng tới cùng.
Quả thực Jaccard
đã giữ lời hứa. Với sự chuyên cần và nỗ lực, anh hoàn thành
chương trình chủng viện Mélan, rồi được lên đại chủng viện giáo
phận Chambery năm 1819. Hai năm sau, thày Jaccard xin gia nhập
hội Thừa Sai Paris, và thụ phong linh mục ngày 15.03.1823. Liền
đó, cha Jaccard được đề cử vào chức vụ giám đốc đại chủng viện.
Nhưng cha thẳng thắn trình bày với các Bề Trên : "Con tình
nguyện vào đây để truyền giáo phương xa, chớ không phải ở thành
phố Paris này".
Thế là ngày
10.07.1823, cha xuống tàu tại cảng Bordeaux giã từ quê hương yêu
dấu. Ngày 25.11.1824, tàu của cha cập bến Macao, nhưng mãi tháng
2.1826, vị thừa sai mới đến được giáo phận Đàng Trong. Sau một
thời gian học tiếng Việt ở chủng viện An Ninh, cha lấy tên là
Phan, hoạt động tại Nhu Lý, Phủ Cam, rồi làm giám đốc chủng viện
An Ninh (Quảng Trị).
Tinh thần phục vụ hết mình
Tháng 6.1827, vua
Minh Mạng tập trung về Huế ba vị thừa sai : Tabert Từ, Gagelin
Kính và Odorico Phương, viện cớ cần người thông ngôn và dịch
sách. Ba tháng đầu, cha được đối xử tử tế, có thể làm việc mục
vụ cho giáo hữu Huế, nhưng các ngài như bị giam lỏng tãi Cung
Quán, lúc nào cũng có lính gác, đi dâu thì có ba lính đi kèm.
Đến cuối năm nhờ có Tả quân Lê Văn Duyệt can thiệp với vua, ba
vị thừa sai được thả về. Còn riêng cha Phan, tháng 7.1828, quân
lính mang trát son, cáng điều đến triệu cha về kinh đô. Ngài ở
Cung Quán dịch các tài liệu tiếng Pháp ra tiếng Việt. thấy ở
Cung Quán như bị "bó tay buộc chân" không làm việc tông đồ được,
cha Phan liền xin vua đến ở họ Dương Sơn cách kinh thành 15 cây
số, để vừa giúp các tín hữu vừa dịch sách cho hoàng cung. Giai
đọan này cha đã dịch các sách về Napoléon, về việc chinh phục
của Anh ở Ấn Độ, về lịch sử Âu, Mỹ, và dạy tiếng Pháp cho nhiều
người vua gởi tới. Vua muốn ban chức lộc triều đình, nhưng cha
từ chối không nhận.
Được tin vua Minh
Mạng sắp mừng lễ Tứ tuần, cha xin phép đứng ra tổ chức tám ngày
liên tiếp, cầu nguyện cho Hoàng Đế bằng những nghi thức long
trọng. Ngoài các tín hữu, số lương dân đến tham dự đông đảo như
ngày hội. Nhiều người nhờ dịp này thêm quý mến đạo, trong đó có
một số quan đại thần và bà chị các Đức Vua.
Người
"lính" của vua Minh Mạng
Tháng 9.1831, làng
Dương Sơn do cha Phan phụ trách bị dân làng Cổ Lão gây chuyện và
tố cáo về tội chiếm đất. Đến sau vì không có bằng cớ, họ đổi qua
tố cáo về tội theo đạo. Lập tức 73 người bị giam tù, mỗi người
lãnh 100 roi đòn, viên phó lý bị lưu đầy, Lý trưởng và cha Phan
bị án tử hình. Riêng với cha Phan, vua Minh Mạng tỏ vẻ nhân đạo
hơn, đổi từ án xung quân, bắt nhập ngũ trong quân đội hoàng gia,
và được điệu về giam lỏng ở Cung Quán để tiếp tục dịch sách vở,
thơ từ …
Giai đoạn này cha
Phan nhiều lần tiếp xúc với vua Minh Mạng. Chính Vua nhờ cắt
nghĩa các tranh ảnh Cựu ước và Tân ước… Vị tông đồ của Chúa liền
tranh thủ giải thích cho vua hiểu về giáo lý trong đạo, về Thiên
Chúa sáng tạo, linh hồn bất tử và thưởng phạt đời sau. Một lần
cha Phan đánh bạo gởi cho vua cuốn giáo lý dành cho người xin
học đạo. Đối lại nhà vua sai quan Thượng thư bộ lễ đến bắt cha
phải đốt hết các sách tôn giáo đó, nhưng cha cương quyết từ
chối. Quan nói: "Tôi tha cho ông, nhưng khi ra trước hội đồng
các quan, ông phải nói đã gởi sách và đồ lễ về Tây rồi, và hứa
không giảng đạo nữa". Cha đáp: "Thưa quan, quan biết là đạo cấm
nói dối, còn việc ngừng giảng đạo, tôi không thể vâng được".
Viên quan tiếp: "Vậy ông sẽ bị án xử tử". Cha trả lời: "Tôi đã
bị lên án một lần, có lên án lần nữa cũng chẳng sao". Vua Minh
Mạng biết chuyện nhưng lờ đi vì thấy chưa đến lúc, chỉ ra lệnh
cho người canh gác cha nghiêm ngặt hơn trước.
Người tù
lưu đày bất khuất
Tháng giêng năm
1833, sau sắc lệnh cấm đạo toàn quốc, cha Phan có thêm người bạn
đồng hàng, cha Odorico Phương dòng Phanxicô mới bị bắt ở Cái
Nhum. Mỗi đêm, hai cha âm thầm dâng lễ với nhau ở Cung Quán, đồ
lễ giấu ở sàn nhà. Từ đây hai vị sống bên nhau trong một năm
rưỡi, cùng chia sẻ ngọt bùi đắng cay, cùng đón nhận người bạn tù
đặc biệt, cha Gagelin Kính và hiệp thông với hy lễ tử đạo của
ngài. Nhiều tuần lễ liền, mỗi buổi sáng khi thức dậy, hai vị lại
giúp nhau chuẩn bị dọn mình lãnh phúc tử đạo, nhưng giờ Chúa
chưa đến.
Thời gian này miền
Nam có cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi. Vua Minh Mạng nghe đồn các
tín hữu tham gia rất đông, nên lo sợ và thảo một lá thư dụ hàng,
đưa cho thừa sai ký. Hai cha thức suốt một đêm để viết một lá
thư khác kêu gọi các anh em tín hữu. Theo lá thư, việc chống lại
triều đình có hại cho đạo, và Tin Mừng không bao giờ chấp nhận
việc huynh đệ tương tàn. Thế nhưng số tín hữu theo Lê Văn Khôi
thực tế không đông, nên lá thư này không mang lại hiệu quả bao
nhiêu.
"Giận cá chém
thớt", vua Ming Mạng nổi cơn thịnh nộ, truyền xử tử hai vị giáo
sĩ. May có sự can thiệp của Hoàng Thái Hậu Thuận Thiên. Bà không
muốc con làm điều thất nhân ác đức, và nhắc con coi chừng nước
Pháp trả thù. Thế là bản án được đổi thành lưu đày chung thân
tại Lao Bảo (ở biên giới Lào), nơi rừng sâu nước độc. Sau mười
ngày trèo non lội suối, ngày 12.12.1833, hai cha đến đất lưu
đầy, phải sống trong trại tù có rào chắn và chông nhọn xung
quanh. Niềm an ủi lớn lao của hai cha là vẫn được nhiều tín hữu
viếng thăm tiếp tế lương thực.
Nhưng chưa được
một tháng, Vua thay viên cai ngục khó tính hơn, và nhắn lời dụ
dỗ hai vị xuất giáo. Việc dụ dỗ thất bại, viên cai ngục liền
chuyển hai cha sang trại cấm cố, cho giam riêng trong một túp
lều trật hẹp, bớt phần cơm và cấm tiếp tế. Thêm vào đó, ông còn
cho tịch thu toàn bộ sách kinh, giấy viết. Cha Odorico Phương
hay nói đùa : "Chúa thấy tôi làm thừa sai vụng về nên cho đổi
qua nghề làm bếp. Tôi là đầu bếp, cha Jaccard rửa chén. Nhưng
vấn đề là không có gì bỏ vào nồi để nấu thôi".
Ngoài nắm cơm mỗi
ngày mỗi nhỏ bớt, hai cha phải đi hái hoa cỏ dại, chuối xanh về
luộc với một ít muối để đủ sống qua ngày. Đời sống kham khổ, đói
khát và cơn bệnh sốt rét ác tính đã cướp đi sinh mạng của người
bạn của cha Phan. Cha Odorico Phương đã từ trần ngày 25.5.1834
sau một tuần liệt giường. Còn lại một mình cha Phan đã sống sót
cách tài tình cho tròn hai mươi tháng lưu đầy. Cũng sốt rét,
cũng kiết lỵ, nhưng ngài đã khuất phục được chúng. Không những
thế, cha tiếp tục làm việc tông đồ trong trại, học tiếng lào để
nếu có cơ hội sẽ qua đó truyền giáo. Cha cũng soạn được một cuốn
ngữ vựng tiếng Chàm, nhờ sự hỗ trợ của các bạn tù người Chàm.
Vắt chanh
bỏ vỏ
Đến tháng 9 năm
1835, vì cần người, vua Minh Mạng đưa cha về giam ở Cam Lộ
(Quảng trị) để làm giáo sư. Vua gửi đến sáu thanh niên học tiếng
Pháp nhưng cấm không được nói chuyện về đạo. Vua nhờ cha hướng
dẫn về địa lý và lịch sử Au Mỹ, giải thích các phong tục, tập
quán và luật lệ của họ. Đặc biệt cha giúp Vua tìm hiểu về Châu
Au, nhất là luật pháp nước Nhật. Dầu bận rộn vất vả, nhưng cha
rất tận tụy với Vua, vì như cha nói: "Tôi muốn chứng tỏ phải
dùng điều thiện để thắng điều ác".
Ba năm trời ở Cam
Lộ, niềm vui lớn nhất của cha Phan là được dâng lễ trong ngục.
Một tấm ván bắc qua hai chiếc ghế làm bàn thờ, cha dâng lễ vào
giữa đêm khuya, rồi thu xếp dọn dẹp ngay sau đó. Vì được quan
quân kính nể, cha có thể chốn thoát dễ dàng. Chính Đức cha Thể
cũng gợi ý điều đó, nhưng cha không thực hiện, vì cha biết quan
quân sẽ truy lùng gắt gao. Việc truy lùng đó sẽ làm hại các tín
hữu và lỡ ra nhiều người sẽ bị bắt vì mình.
Đầu năm 1838, một
biến cố lớn làm thay đổi hoàn cảnh cha Phan. Số là khi triệt hạ
chủng viện An Ninh gần Di Loan, cha gíam đốc Candalk Kim chạy
thoát nên vùng núi, vua liền trút cơn thịnh nộ lên cha Phan "Kẻ
thông đồng với tội nhân qua thư từ". Ngày 07.3 cha bị bắt trói,
hỏi cung rồi bị mang gông xiềng áp giải về Quảng Trị.
Đường lên
núi sọ
Tại Quảng Trị,
quan cho căng nọc vị thừa sai và cho đánh từ 9 giờ đến trưa, nát
nhiều chiếc roi, để bắt cha phải bỏ đạo. Cha trả lời : "Đạo của
tôi không do Đức Vua, nên tôi không buộc phải bỏ đạo theo ý Vua
được". Lần khác, cha bị tra tấn bằng kìm nung đỏ kẹp vào đùi,
thịt cháy khét, đau đớn vô cùng, nhưng cha vẫn cương quyết không
chối đạo.
Từ 18.7.1838, cha
được giam chung với chủng sinh Tôma Thiện. Hai cha con tạ ơn
Chúa, và cùng nhau nguyện cầu xin Ngài trợ giúp. Bản án từ Quảng
Trị gởi vào kinh đô xin xử trảm, nhưng vua Minh Mạng đổi thành
xử giảo và ký ngày 17.9. Sáng ngày 21.9.1838, quan quân dẫn hai
cha con ra khỏi trại giam, đến một ngọn đồi ở làng Nhan Biều
(Quảng Trị). Tới nơi xử, hai cha con từ chối bữa ăn ân huệ, và
quỳ đối diện quay vào nhau cùng cầu nguyện.
Theo ý cha Phan,
muốn thấy tận mắt sự trung thành của người môn sinh trẻ tuổi,
nên quân lính hành xử chủng sinh Tôma Thiện trước. Sau đó, vòng
dây qua cổ vị giáo sĩ rồi kéo mạnh hai đầu, đưa linh hồn ngài về
Thiên Quốc.
Bà mẹ của cha Phan
khi hay biết, đã reo lên "Thật là tin vui, gia đình ta có một vị
tử đạo". Bà nói : "Xin chúc tụng Chúa. tôi vẫn sợ sẽ buồn khổ
biết bao, nếu con tôi bị khuất phục trước gian khổ, trước cực
hình’.
Thi hài vị tử đạo
được chôn cất ngay tại pháp trường, đến năm 1847 được cải táng
về chủng viện Thừa Sai Paris. Đức Lêo XIII suy tôn linh mục
Phanxicô Jaccard Phan lên hàng Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày
19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Nguồn từ thư
viện Đa Minh
Trường thi tử Đạo.
Phanxicô Jaccard
linh mục
Năm Kỷ Mùi (1799) quê thực Paris
Quen nơi đồng cỏ xanh rì
Khi vào trường học ấy thì ham chơi
Ðược cha mẹ gởi nơi chủng viện
Cậu Phan luôn vào diện bét tràng
Ðâm ra chán nản bỏ ngang
Liều mình bỏ trốn, thở than gia đình
Nhờ bạn tốt nhiệt tình khích lệ
Tự riêng muốn để làm Cha
Chức Linh mục mãi thiết tha
Nhập vô chủng viện, hứa là siêng chăm
Cậu nỗ lực một năm thấy rõ
Một thời gian sau đó được thăng
Ðại chủng viện học rất hăng
Thụ phong Linh mục, tiếng tăm lẫy lừng
Hội Thừa sai đón mừng gia nhập
Ði rao truyền thành lập khắp nơi
Tông đồ phục vụ tuyệt vời
Ðược bầu Giám đốc, coi thời chủng sinh
Cha Phan muốn hy sinh truyền giáo
Sang phương Ðông giảng đạo Thừa sai
Xuống tàu vượt biển đường dài
Lâu ngày cập bến, phía ngoài miền Trung
An Ninh chủng viện dùng tiếng Việt
Cha mãi mê học miết hiểu thông
Nha Cam, Nhu Lý hợp đồng
Ngài lên Giám đốc, coi trông điều hành
Nhận trách nhiệm trở thành thông dịch
Tại Triều Ðình rất thích đón Cha
Mười năm thành đạt tài ba
Sau ngài đào tạo, công Cha khá nhiều
Cuộc bách hại sớm chiều ác liệt
Ở Quảng Trị và miệt Quảng Bình
Lệnh tra tấn thật thất kinh
Các khanh phải biết, điều binh truy lùng
Trẫm cho phép được dùng vũ lực
Miễn làm sao truy bứt Giatô
Roi đòn lính đánh tha hồ
Xích xiềng gông cổ, tống vô nhà tù
Vua Minh Mạng dẹp khu thông dịch
Ðã trở nên kình địch Cha Phan
Mời lên tòa trấn hỏi han
Giáo dân trong tỉnh, rõ ràng bao nhiêu
Các đạo trưởng còn nhiều hay hết
Cha trả lời, sống chết mình tôi
Tới đây Cha mệt sức rồi
Các quan xấu hổ, khi ngồi hỏi han
Càng tra tấn, ngài càng can đảm
Dám chắp tay xin cảm ơn Trời
Giúp con chiến thắng tới nơi
Quan quân tức giận, chỉ thời đòn roi
Vẫn thản nhiên, cha coi ơn phúc
Tại pháp trường thủ tục xử cha
Ngài quỳ cầu nguyện thiết tha
Lý hình gươm chém, mạnh đà đầu rơi
Thi hài ngài chôn nơi bãi xử
Sau đưa về bên xứ Paris
Hồng ân tử đạo vinh quy
Nước trời vinh hiển, Chúa thì thưởng công
Phúc tử đạo mùa đông Mậu Tuất (1838)
Vững đức tin chẳng khuất phục vua
Vinh thăng Toà Thánh đúng mùa
Suy tôn Canh Tý (1900) đón đưa Nước Trời
Một lòng son sắt không nao núng
Giữ vững niềm tin trước cực hình
Mạng sống an toàn đâu xá kể
Tiền tài danh vọng dám hy sinh
Ðoạn thơ tứ tuyệt này có sẵn trong tài liệu (21/09/1838)
Lời bất hủ: Quan dụ dỗ nói dối đã chối đạo, cha trả lời:
"Thưa quan, quan biết là đạo cấm nói dối, còn việc ngừng giảng
đạo, tôi không thể vâng được". Quan tiếp: "Vậy thì ông sẽ bị án
xử tử". Cha trả lời: "Tôi đã bị lên án một lần, có lên án lần
nữa cũng chẳng sao". Cha đã giúp vua tìm hiểu Âu châu và nước
Nhật.. Cha nói: "Tôi muốn chứng tỏ phải dùng điều thiện để thắng
điều dữ". |