Chứng Tá Tập Thể Trong Lao Tù
Đọc truyện các
Thánh Tử đạo Việt Nam, không ai có thể quên được một chứng tá
tập thể của hai thầy giảng, ba giáo dân ở trong tù. Năm vị cùng
bị giam chung với cha Tự và ông trùm Cảnh, nhưng hai vị này tử
đạo trước (5.9.1838). Dù sống trong ngược đãi, dù bị kiểm soát
gắt gao, năm vị đã gắn bó với nhau trong tình anh em tha thiết,
cùng sống đức tin kiên vững và nỗ lực làm chứng cho Thiên Chúa
bằng lời nói, gương sáng và bằng chính mạng sống mình.
1. Thánh Phanxicô Xavie HÀ TRỌNG MẬU, Thầy giảng dòng ba Đaminh
(1790-1839)
Thầy giảng
Phanxicô Xavie Mậu không những phải chọn lựa giữa cái chết và
cuộc sống, thầy còn phải chọn lựa giữa cái chết và việc làm quan
triều đình. Không một chút lưỡng lự, thầy trả lời vị tổng đốc:
"Tôi không ham quyền, tôi chỉ muốn chết vì đạo."
Phanxicô Xavie Hà
Trọng Mậu cất tiếng chào đời năm 1790 tại làng Kẻ Diền, tỉnh
Thái Bình. Cậu được cha mẹ cho đi tu, trở thành thầy giảng và đi
giúp nhiều giáo xứ. Khi cha Phêrô Tự bị bắt, thầy Mậu đang coi
họ Nội, thuộc xứ Kẻ Mốt. Được tin cha và thầy Úy bị đưa về Lương
Tài, thầy liền đến đó nghe ngóng tin tức. Giáo hữu gửi thầy trọ
ở nhà một lương dân phía bên kia sông, vì nghĩ rằng lính sẽ
không khám xét đến. Ai ngờ, chính người chủ nhà đi báo cho quan
kiếm tiền thưởng, thế là thầy bị bắt.
Thầy bị dẫn đến
dinh quan Lương Tài. Có mặt cha Tự ở đó. Quan hỏi thầy là ai,
thầy đáp: "Thưa quan, tôi là một môn đệ thân tín của cha đây".
Cha Tự ra dấu nhắc thầy đừng khai rõ, may ra có thể chuộc về
được chăng, nhưng thầy nói nhỏ với cha: "Xin cha thương nhận con
là môn sinh, để con cũng được tử đạo với cha."
Kể từ ngày cha Tự
và ông trùm Cảnh bị đem đi xử trảm, thầy Mậu trở thành cột trụ
nâng đỡ bốn người còn sót lại, là thầy Úy, các anh Mới, Vinh và
Đệ. Thầy nhắc anh em sống huynh đệ, an ủi giúp đỡ nhau. Thầy đại
diện anh em viết thơ ra ngoài, hoặc trả lời với các quan. Đặc
biệt thầy động viên anh em hăng hái làm việc tông đồ ngay trong
nhà tù. Trong hồ sơ phong thánh, cha Huấn đã dựa vào các thơ của
thầy làm chứng rằng: "Thầy Mậu vẫn dạy giáo lý cho các tù nhân,
và rửa tội được bốn mươi bốn người. Trong đó có một tử tội tên
Hưng mới học đạo một tháng thì đến ngày xử, anh xin quan hoãn
lại ít giờ để rửa tội, sau đó vui vẻ tiến ra pháp trường...".
Khi quan nói: "Kẻ
nào chết vì không chịu bước qua thập giá là ngu dại, không biết
thương cha mẹ già." Thầy giải thích: "Thưa quan, cha mẹ sinh
chúng tôi, nhưng ngay cha mẹ chúng tôi có ở trên đời, cũng là
nhờ quyền năng của Chúa." Khi quan tuyên đọc bản án xử tử, thầy
bình tĩnh đáp lại: "Thưa quan, chúng tôi mong ước về với Chúa,
như nai mong tìm thấy suối vậy. Xin quan cứ thi hành án lệnh của
Đức vua."
2. Thánh
Đaminh BÙI VĂN ÚY Thầy giảng dòng ba Đaminh (1812-1839)
"Nếu tôi cả gan
bước lên thánh giá, thì tôi xúc phạm đến Chúa và bất hiếu với
cha mẹ. Vì song thân sinh ra tôi, đã dạy tôi trung thành với
niềm tin cho đến chết."
Thầy Đaminh Úy đã
đặt trọn niềm tin của mình trong truyền thống tiên tổ. Không
biết cha mẹ căn dặn thầy trung kiên dù phải tử đạo vào lúc nào,
khi mới có bách hại hay khi vào thăm trong tù? Nhưng rõ rệt là
với thầy, phản bội đức tin là phản lại những người đã nhọc công
vun trồng niềm tin cho mình.
Đaminh Bùi văn Úy
sinh năm 1812 tại họ Tiền Môn, làng Kẻ Rèm, tỉnh Thái Bình. Từ
bé cậu đã được gia đình gửi vào nhà xứ sống với cha Tự. Sau khi
học thành thầy giảng thầy luôn hoạt động bên cha tại giáo xứ Kẻ
Đanh rồi Kẻ Mốt (Bắc Ninh), thì bị bắt, lúc đó thầy mới 26 tuổi.
Bất cứ ai gặp thầy Úy đều công nhận thầy hiền lành, có lòng yêu
mến Chúa đặc biệt và là người trợ thủ đắc lực của cha Tự trong
công tác, nhất là khi cuộc bách hại của vua Minh Mạng bùng nổ.
Ước mơ lớn nhất của thầy là được đóng vai "Lê Lai thế mạng" để
cha Tự khỏi bị bắt. Khi đào hang trú ẩn, thầy làm hai ngăn rồi
tình nguyện ở ngăn bên ngoài. Thầy nói với mọi người: "Nếu các
quan đến truy lùng, tôi sẽ ra trước nộp mình để cha khỏi bị bắt,
hầu cha có thể giúp anh chị em."
Ngày 29.6.1838,
lính đến vây làng Kẻ Mốt, đã bắt thầy Úy chung với cha Tự. Cha
dự định khai thầy chỉ là giáo hữu vào làm bếp để đỡ nguy hiểm,
nhưng thầy nói: "Xin cha cứ nói con là thầy giảng, may ra cùng
được phúc tử đạo với cha"
Rồi thầy xin xưng
tội để chuẩn bị tâm hồn. Một lần tương kế tựu kế, quan nói dối
thầy: "Cha Tự xuất giáo rồi, sao anh còn cố chấp thế?" Thầy bình
tĩnh trả lời: "Vô lý, cha tôi không bao giờ làm vậy, mà dù có
thực như thế, tôi cũng không chịu xuất giáo đâu."
Lần khác, quan như
muốn dạy khôn thầy: "Anh còn trẻ, hãy nghĩ lại và khôn hơn một
chút, ta chỉ yêu cầu anh bước qua một khúc gỗ mà." Thầy Úy đáp:
"Đúng là khúc gỗ, thưa quan, nhưng khúc gỗ đó lại tượng trưng
cho Chúa tôi thờ. Quan nghĩ sao nếu tôi giày đạp lên ảnh vẽ hình
cha mẹ tôi?" Hôm khác, khi bị dụ dỗ bước qua thánh giá, thầy
khẳng khái nói: "Thưa quan, quan có dám bước qua mặt đức vua
không, mà lại bảo tôi bước qua mặt Chúa tôi? Nhưng dù quan có
bước qua mặt vua, thì tôi cũng không bước qua mặt Chúa tôi
được."
Quan nghiêm nghị
phán: “Tên phạm thượng, ta sẽ chém đầu mi." Người chiến sĩ đức
tin vui vẻ reo lên:
"Anh em ơi, tôi sắp được chém rồi".
Nhưng phúc trường
sinh đến với thầy không quá sớm như vậy.
3. Thánh Augustinô NGUYỄN VĂN MỚI Nông dân dòng ba Đaminh
(1806-1839)
Tuy là một tân
tòng mới theo đạo, anh Augustinô Mới đã biểu lộ một đức tin kiên
cường, không thua kém gì những Kitô hữu vững tin nhất.
Augustinô Nguyễn
văn Mới sinh năm 1806 tại làng Bồ Trang tỉnh Thái Bình, trong
một gia đình nông dân ngoại giáo. Đến tuổi trưởng thành, anh đến
làng Đức Trai, xứ Kẻ Mốt (Bắc Ninh) để làm thuê làm mướn. Tiếp
xúc với giáo hữu ở đây, càng ngày càng thấy mến đạo, và xin theo
học giáo lý. Năm 31 tuổi, anh được cha Tự rửa tội và đặt tên
thánh bổn mạng là Augustinô.
Mấy năm sau, cha
Tự cũng chủ sự lễ thành hôn cho anh với một thiếu nữ trong xứ.
Theo các lời chứng trong hồ sơ phong thánh, anh Augustinô Mới
sống đạo rất tốt, đặc biệt là đọc kinh Mân Côi mỗi tối. Dù có
ngày lao động vất vả đến mãi khuya mới về, anh cũng không quên
kinh Mân Côi kính Đức Mẹ.
Ngày 29-6-1838,
khi quân lính bao vây làng Kẻ Mốt và bắt cha Tự, họ buộc toàn
dân phải ra đình điểm danh, rồi bước qua thánh giá. Một số tín
hữu nhanh chân lẫn tránh được, một số nhát gan thực hiện lời yêu
cầu của lính. Các anh Mới, Vinh và Đệ cương quyết không chịu đạp
lên thánh giá, nên bị bắt và áp giải chung với cha Tự, ông trùm
Cảnh và hai thầy Úy và Mậu lên giam tại Bắc Ninh.
4. Thánh
Tôma NGUYỄN VĂN ĐỆ Thợ may dòng ba Đaminh (1811-1839)
Hai mươi tám tuổi
đời, một người vợ ba người con, đó là mối ưu tư trắc trở của anh
Tôma Đệ trong những ngày bị giam cầm. Không thể bỏ đức tin,
nhưng tương lai của người vợ trẻ và đàn con dại sẽ ra sao? Trong
nhiều ngày anh suy nghĩ và tha thiết cầu nguyện xin Chúa soi
sáng. Cuối cùng anh tìm được an bình trong tâm hồn, phó thác tất
cả trong bàn tay Chúa quan phòng. Anh nói với người vợ đến thăm:
"Đừng khóc mình ạ.
Mình về dạy dỗ các con nên người, dạy chúng thờ phượng Chúa. Tôi
đã dâng mình và các con cho Ngài. Nhớ cầu xin Chúa cho tôi thêm
sức mạnh để nhẫn nại đến cùng."
Ra đời trong một
gia đình Công giáo tại làng Bồ Trang, tỉnh Thái Bình năm 1811,
Tôma Nguyễn văn Đệ vì lý do sinh kế, theo cha mẹ về xứ Kẻ Mốt
(Bắc Ninh) và ở ngay gần nhà thờ. Lớn lên anh theo nghề thợ may
và được mọi người yêu chuộng. Anh rất nhiệt tình với việc trong
xứ trong họ. Hầu hết cờ quạt, đồ trang hoàng trong nhà thờ và
nhà xứ đều nhờ đến bàn tay khéo léo và sáng tạo của anh. Khi
kinh tế gia đình ổn định, anh lập gia đình, ra ở riêng và sinh
hạ được ba người con.
Ngày 29.6.1838,
quân lính vây làng Kẻ Mốt, và ép buộc mọi người trên 18 tuổi
phải đạp lên thánh giá. Anh lẩn trốn ra phía sau nhà. Đến khi
quân lính xồng xộc vào nhà lùng bắt, anh biết mình không thể
tránh được nữa, liền giã từ vợ, dặn đưa con về bên ngoại, ôm hôn
từng đứa rồi ra trình diện. Đến trước thánh giá, anh Đệ quỳ
xuống cầu nguyện lớn rằng: "Lạy Chúa, sẽ không bao giờ con bước
qua mặt ngài."
Quân lính áp giải
anh Tôma Đệ cùng với cha Tự ông trùm Cảnh, hai thầy Úy, Mậu và
các anh Mới và Vinh về giam tại Bắc Ninh.
5. Thánh
Stêphanô NGUYỄN VĂN VINH Tá điền dòng ba Đaminh (1813-1839)
Thánh Stêphanô
Vinh là một trường hợp hy hữu, trong danh mục các thánh tử đạo
Việt Nam. Khi bị bắt, anh mới chỉ là dự tòng chưa được rửa tội.
Nhưng với những hiểu biết ít ỏi về đạo, anh đã kiên trì làm
chứng cho chân lý. Mặc dù khi vô tù anh mới chính thức gia nhập
đạo, rồi thành hội viên dòng ba Đaminh, nhưng anh không thua kém
ai về lòng can đảm tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa.
Stêphanô Nguyễn
văn Vinh sinh năm 1813 tại làng Bồ Trang tỉnh Thái Bình. Sống
trong một gia đình ngoại giáo rất nghèo, một miếng đất cũng
không có, anh Vinh quanh năm phải làm thuê làm mướn cho các gia
đình Kẻ Mốt (Bắc Ninh). Trường học duy nhất anh ham thích và
theo được là các lớp giáo lý, nơi anh tập đánh vần và học truyền
khẩu. Đặc biệt anh đem các điều học ở đó ra thực hành trong cuộc
sống. Có điều là người ta không biết vì sao anh chưa được rửa
tội. Mọi người đều mến thương anh vì anh đơn sơ, chất phác, khỏe
mạnh và thật thà. Trong công việc anh không bao giờ làm cho qua
loa chiếu lệ, ai thuê việc gì, anh cũng chu toàn tốt đẹp không
cần kiểm soát, không có gì để chê trách. Cho đến khi bị bắt (lúc
26 tuổi) anh vẫn sống độc thân chưa lập gia đình.
Ngày 29.6.1838,
khi quan quân vây bắt cha Tự ở Kẻ Mốt, và bắt mọi người phải đạp
qua thánh giá, chàng thanh niên 25 tuổi này đã anh dũng nói
thẳng với họ rằng: "Tôi thà chết chứ không bao giờ chịu đạp lên
thánh giá, vì tôi biết đạo Chúa Giêsu là đạo thật."
Vì lời nói này,
quan quân tưởng anh là người trong đạo, thế là họ bắt anh Vinh
và áp giải về trại giam Bắc Ninh chung với cha Tự, ông trùm
Cảnh, thầy Úy, thầy Mậu, anh Mới và anh Đệ. Chính tại đây, anh
Vinh được diễm phúc làm người Kitô hữu, được hân hạnh làm con
Cha Thánh Đaminh. Suốt hành trình tử đạo, anh là một nhân chứng
trầm lặng, chỉ đồng tình với các vị khác, nhưng gông cùm, xiềng
xích và tra tấn không lần nào có thể làm anh sa ngã hay thối
chí. Chọn quan thầy Stêphanô trong tù, anh cương quyết noi theo
vị tử đạo tiên khởi của Giáo hội đến hơi thở cuối cùng.
Lời An Ủi Ấm Lòng
Sau một tháng dọa
nạt tra khảo bảy chiến sĩ đức tin nhưng vô hiệu, ngày 27.7.1838,
quan tỉnh Bắc Ninh đệ án vào triều xin xử giáo cha Tự và ông
trùm Cảnh, còn năm vị kia quan cho là nhẹ dạ tin theo, nên xin
đánh mỗi người một trăm roi rồi phát lưu vào Bình Định. Luật vua
thời đó xử giảo các phù thủy, đồng cốt, còn những kẻ a dua chỉ
bị đánh đòn và phát lưu ba trăm dặm. Thế nhưng vua Minh Mạng cho
rằng tội theo đạo Gia-tô thuộc loại nặng hơn, nên quyết định xử
chém hai vị trên ngay tức khắc, còn tất cả sẽ bị xử giảo sau một
năm nếu không chịu thay đổi ý kiến.
Ngày 5.9.1838, khi
biết tin cha Phêrô Tự và ông trùm Cảnh đã bị chém tại pháp
trường Kinh Bắc, năm vị trong ngục buồn bã nhớ thương. Thầy Mậu
kêu gọi anh em ngồi lại bên nhau cùng đọc kinh, vừa khích lệ
nhau, vừa ôn lại những lời khuyên của cha mình. Sau đó ba buổi
tối, như chính các vị thuật lại, trong lúc họ đang cầu nguyện,
thì bất ngờ tất cả đều thấy như cha Tự hiện ra ngay bên an ủi
họ: "Các con đừng buồn, chắc chắn các con sẽ còn được chết vì
đạo. Tuy nhiên, các con sẽ còn phải qua một thời gian thử thách
nữa, để xứng đáng với phúc trọng này." Có thể đó chỉ là giấc mơ
chứ không phải sự thật, cũng có thể đó là lời nhắn nhủ cuối cùng
của vị linh mục, nhưng kể từ ngày đó họ hết sầu buồn, tìm lại
được can đảm để nêu gương ngay trong cảnh quẫn bách ở trong trại
giam.
Tuyên Khấn Trong Ngục Tù
Ấn tượng ghi nét
sâu đậm vào lòng năm vị chứng nhân là lời cha Tự trong ngày lãnh
phúc tử đạo. Cha mặc áo dòng và nói với mọi người về chiếc áo
đó. Trước đây bốn vị, đến khi vào tù có thêm anh Vinh, đã mặc áo
dòng ba Thánh Đaminh, nhưng chưa ai khấn cả. Thầy Mậu liền viết
thơ cho cha Huấn dòng Đaminh để bày tỏ niềm ước nguyện được hiệp
thông với dòng cách trọn vẹn. Thầy viết:
"Chúng con tất cả là năm tập sinh của dòng ba Đaminh, nhưng
chúng con không thể giữ chay đủ các ngày thứ Hai, thứ Tư, thứ
Sáu và thứ Bảy được, nên chúng con xin cha thương rộng phép
chuẩn chước cho sự thiếu sót đó. Qua thơ này, chúng con xin
tuyên khấn trọn đời. Vì chúng con không thể đọc lời tuyên khấn
trong tay cha được, nên bằng những dòng viết này chúng con coi
như thực sự tuyên khấn trước mặt cha vậy, xin cha cho phép."
"Để tôn vinh và
ngợi khen Thiên chúa toàn năng, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần, chúng con là Phanxicô, Đaminh, Augustinô, Tôma và
Stêphanô, trước mặt cha Huấn, đại diện cha Hermosilla, giám đốc
dòng ba hãm mình Thánh Đaminh chúng con xin hứa và ước ao giữ lề
luật và tập tục của dòng cho đến chết."
Những chữ "cho đến
chết" trong ngục tù khi đó chắc hẳn phải có âm vang đặc biệt đối
với các vị. Được nối kết với truyền thống hơn sáu trăm năm
truyền giáo của Thánh Phụ và một dòng tu lớn trong Giáo hội, từ
nay năm anh em tích cực hơn với việc tông đồ. Dưới sự điều hành
của thầy Mậu, năm hội viên dòng ba chia nhau tiếp xúc gặp gỡ các
bạn tù, giới thiệu với họ về Thiên Chúa, cắt nghĩa giáo lý, rồi
dẫn họ đến thầy Mậu lãnh nhận bí tích rửa tội. Ít ra các vị đã
rửa tội được bốn mươi bốn người. Ngục tù giờ đây trở thành
nguyện đường, hằng ngày vang lên những lời chúc tụng Thiên Chúa,
lời cầu nguyện cho Giáo hội và cho mọi người, mọi giới được đầy
tràn ơn lành của Ngài.
Làm Chứng Trước Quan Quyền
Thấm thoát hơn một
năm đã trôi quan, triều đình quyết định lại việc xử giảo cả năm
người. Ngày 19.8.1839 quan cho điệu tất cả ra tòa, vẫn để thánh
giá một bên, bên kia là dụng cụ tra tấn. Quan nói: "Các anh bị
giam cầm đã lâu ngày, chịu khổ cũng đã nhiều, vậy bỏ đạo đi, ta
tha về với vợ con." Thầy Mậu đại diện anh em trả lời: "Chúng tôi
đã quyết tâm trung thành với Chúa, nếu quan ra lệnh chém đầu hay
giết cách nào khác, chúng tôi đều sẵn sàng."
Rồi cả năm vị quỳ
xuống bái lạy thánh giá và cầu nguyện: "Lạy Chúa, xin cứu chúng
con, con xin phó thác hồn con trong tay Chúa."
Thất vọng, quan
cho lính đưa tất cả về ngục và thốt lên: "Bọn này không thể tha
thứ được, mà chúng có thèm được tha đâu."
Ngày 24.11, năm vị
phải ra toà một lần nữa. Quang cảnh vẫn như lần trước, và các
tôi tớ Chúa vẫn một mực cương quyết không chối đạo. Thầy Mậu
thay mặt anh em nói với quan: "Chúng tôi chỉ tôn thờ một Thiên
Chúa là Cha chung muôn loài, là Vua trên hết các vua, là Đấng
chúng tôi mong được đổ máu ra để chứng tỏ lòng trung thành và
yêu mến."
Như Nai Rừng Mong
Mỏi Tìm Về Suối Nước Trong Ngày 19.12.1839, trước khi đi xử,
quan cho năm vị một cơ hội cuối cùng. Ông nói: "Chỉ cần đi ngang
qua phía chân tượng, ta cũng tha." Sau ông lại nói: "Chỉ cần đi
vòng quanh tượng ta cũng tha." Nhưng các vị chứng nhân đức tin
không dễ bị mắc lừa, họ bảo nhau quỳ xuống đọc kinh Kính Danh
Chúa Giêsu. Có lẽ do ảnh hưởng những lời kinh Giáo hội trong mùa
Vọng, đón chờ Chúa giáng sinh, thầy Mậu nói với quan những lời
kinh Thánh vịnh 41 (c 1-2): Thưa quan, chúng tôi ước mong về
Chúa như nai mong tìm thấy suối vậy. Xin quan cứ thi hành án
lệnh của nhà vua."
Biết không thể làm
nao núng ý chí sắt đá của những con người này được nữa, quan
liền truyền đem đi xử với bản án như sau: "Bọn gian ác theo
Gia-tô tả đạo, mặc dầu đã khuyên răn sửa phạt, vẫn ngoan cố
không chịu bước qua thập giá, nay chúng bị xử giảo"
Trên đường ra pháp
trường, thầy Mậu rảo chân bước đi trước, các anh khác bước theo
sau, tất cả đều tỏ ra hân hoan kiên cường. Dân chúng hiếu kỳ đi
xem rất đông và xì xào với nhau là các vị này bị giết oan. Theo
gương thầy Mậu, các chứng nhân tươi cười với mọi ngườỉ: "Anh em
chúng tôi đang tiến về thiên đàng đây." Khi tới nơi xử, mỗi vị
bị trói vào một cọc đã chôn sẵn. Rồi cùng một lúc, lý hình xiết
cổ các vị bằng giây thừng cho đến lúc tắt thở. Các tín hữu đem
thi thể các vị về an táng ở họ đạo mình. Thánh Mậu ở Kẻ La,
Thánh Úy ở Đồng Tiến, Thánh Mới ở Phượng Vĩ, Thánh Đệ ở Phong
Cốc và Thánh Vinh ở Hương La, tất cả đều thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Ngày 27.5.1900,
Đức Giáo Hoàng Lêo XIII đã suy tôn năm vị anh hung tử đạo:
Phanxicô Xavie Hà trọng Mậu, Đaminh Bùi văn Úy, Augustinô Nguyễn
văn Mới, Tôma Nguyễn văn Đệ và Stêphanô Nguyễn văn Vinh lên bậc
Chân Phước.
Ngày 19.6.1988 Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong các vị lên bậc hiển thánh.
Lễ
Nhớ: Ngày 19 tháng 12
(ST)
Trường thi tử đạo
Linh mục Ðaminh Hà
Trọng Mậu
Sinh Giáp Dần (1794) quê cận Phú Nhai
Học xong Chủng viện như ai
Thụ phong Linh mục công khai khấn dòng
Là thợ gặt khéo trong đồng lúa
Dắt đoàn chiên được Chúa trao ban
Ðức tin dẫn lối đưa đàng
Linh hồn mưu ích đảm đang tiến hành
Cha lãnh nhận tân canh nhiều xứ
Dù hiểm nguy bất cứ nơi nào
Lên đường lời Chúa giảng rao
Luôn đem tâm trí bước vào khó khăn
Vây Kẻ Ðiền chúng săn lùng bắt
Thấy Cha Mậu chăn dắt đoàn chiên
Quân quan xông tới trói liền
Giải về tra tấn xích xiềng cổ gông
Cha cương quyết sẽ không khuất phục
Một niềm tin hun đúc tuyên xưng
Rao truyền lời Chúa Tin mừng
Nhà giam ngài vẫn không ngừng giảng rao
Các giáo hữu Chúa trao đau khổ
Cùng bị giam một chỗ với Cha
Giúp người hoán cải thật thà
Vững tin vào Chúa lo mà canh tân
Người đạo đức xa gần giáo hữu
Vào thăm ngài cầu cứu giải hòa
Bề ngoài tiếp tế thăm cha
Chủ tâm xưng tội ngài đà giúp dân
Cha bị nhốt vẫn lần tràng hạt
Chia giờ ra khao khát nguyện kinh
Cuộc khổ nạn Chúa tử hình
Trên cây Thập Giá hy sinh cứu đời
Cha cư xử nói lời thân ái
Với giáo dân trai gái thăm ngài
Bà Ngoan khẳng định không sai
Cả toán lính gác quản cai coi tù
Cũng kính nể nhà tu gương mẫu
Không ghét yêu đổi xấu thành hay
Ðức tin không thể lung lay
Quân quan Nam Ðịnh ra tay xử liền
Vua ra lệnh ban truyền trảm quyết
Cha nghiêm trang mắt liếc nhìn trời
Ðôi tay chắp lại thảnh thơi
Lý hình chém cổ đầu rơi lìa mình
Lễ mai táng linh đình trọng thể
Tại nhà thờ nghi lễ tiễn đưa
Giáo dân nước mắt như mưa
Xác thân đau khổ hồn đưa về Trời
Phúc tử đạo lãnh thời Mậu Ngọ (1858)
Chết tuyên xưng tuổi thọ bốn hai
Suy tôn Tân Mão (1951) chẳng sai
Lên hàng Á thánh danh ngài Thiên cung
Lời bất hủ: Khi quan tổng đốc Nam Ðịnh không bắt cha bỏ
đạo được thì làm án trảm quyết cha và 21 bổn đạo khác nữa. Khi
biết tin này, cha Mậu tỏ ra hân hoan và giúp đỡ các tín hữu
trong tù xưng tội và chuẩn bị đón hồng ân Tử Ðạo. Khi ra pháp
trường, mọi người có cảm tưởng như cha đang nghiêm trang cử hành
thánh lễ vậy. |