Đọc lại chuyện các
anh hùng tử đạo, chúng ta thấy các ngài làm chứng cho Chúa Kitô
hai lần: bằng mạng sống và bằng lời nói. Các vị đã nói để tuyên
xưng niềm tin của mình, có vị giải thích những dư luận sai lầm,
có vị cắt nghĩa giáo lý. Nhưng chuyện hy hữu nhất trong chuyện
117 thánh tử đạo Việt Nam, là linh mục Vinh Sơn Liêm và một linh
mục bạn, cha Jacinto Gia, đã tranh luận suốt ba ngày với đại
diện ba tôn giáo lớn ở nước ta khi đó, là Phật giáo, Khổng giáo
và Lão giáo.
Con người bởi đâu
mà có ? Sống ở đời để làm gì ? Và chết rồi đi về đâu ? Đó là ba
vấn đề lớn của cuộc nhân sinh, đã được đem ra trao đổi trong Hội
Đồng Tứ Giáo. Những lời lẽ nhã nhặn và sáng sủa, những phân tích
sâu sắc về lịch sử với các trích dẫn chính xác kinh điển của
Khổng Tử, Lão Tử và Phật Giáo, đã được ghi lại trong cuốn "Hội
Đồng Tứ Giáo" từng tái bản tới 14 lần tại Sài Gòn (1), sẽ mãi
mãi nhắc chúng ta nhớ đến cha Vinh Sơn Liêm, tác giả cuốn sách,
là người tham gia cuộc trao đổi, và là linh mục Việt Nam tử đạo
đầu tiên.
Vinh sơn Phạm Hiếu
Liêm mở mắt chào đời năm 1732 tại Thôn Đông, làng Trà Lũ, Phủ
Thiên Trường, trấn Sơn Nam Hạ. Thân phụ cậu, ông Antôn Doãn, là
một thân hào trong thôn. Thân mẫu cậu, bà Maria Doãn, một người
mẹ đạo đức, đã hết mình với việc giáo dục con cái. Năm 12 tuổi,
cậu Liêm vào tu trong nhà Đức Chúa Trời ở Lục Thủy. Qua sáu năm
học tập, cậu đã tỏ ra là người thông minh đạo đức, nên được các
cha đòng Đaminh thời đó đang phụ trách giáo phận Đông Đàng Ngoài
để ý. Cha chính Espinnoza Huy đã chọn cậu vào số các thanh niên
hưởng học bổng của Tây Ban Nha, gởi đi du học Manila (Phi Luật
Tân) tại trường Juan de Letran.
Sau ba năm học
thành công xuất sắc, thày Liêm xin gia nhập dòng Đaminh và lãnh
tu phục ngày 09.09.1753. Năm sau, thày tuyên khấn trọng thể cùng
với ba tu sĩ đồng hương (2) và lấy biệt hiệu là Vinh Sơn Hòa
Bình (Vincente de la Paz). Tiếp đó, thày Vinh Sơn học thêm bốn
năm thần học và được thụ phong linh mục năm 1758.
Thụ phong linh mục
rồi, cha Liêm liền chuẩn bị trở về phục vụ quê hương. Ngày 03.10
năm đó, khi giã từ các giáo hữu và thân hữu để xuống tàu hồi
hương, cha không thể giấu nổi niềm xúc cảm với bao lưu luyến
những bạn bè quen thuộc trong tám năm qua. Về đến Trung Linh
ngày 20. 01.1759, cha đã không cầm nổi nước mắt, vì vui mừng
được gặp lại cha chính Huy ra đón tận bến đò, được tái ngộ cùng
thân quyến, đồng bào, xóm làng, và nhất là giáo hữu đang nôn nao
đón chờ ngày "vinh quy" của vị linh mục du học hải ngoại.
Về Việt Nam, trước
hết cha Vinh Sơn được bổ nhiệm làm giáo sư chủng viện Trung
Linh. Cha đã đem hết tài trí và nhiệt thành truyền đạt cho các
chủng sinh những kiến thức cha đã thu thập được. Nhưng nguyện
vọng của linh mục Vinh Sơn Hòa Bình lại là loan báo Tin Mừng
bình an cho anh em. Và chẳng bao lâu, cha rời chủng viện dấn
thân vào cánh đồng truyền giáo. Cha lần lượt đảm nhiệm các xứ
Quất Lâm, Lục Thủy, Trung Lễ, Trung Linh, Trung Lao, và từ khi
cha Jacinto Gia bị bắt, cha kiêm luôn cả vùng Lai Ổn.
Hoạt động tông đồ
của cha không chỉ hạn hẹp trong các giáo xứ, mà còn mở rộng đến
các làng ngoại giáo, bất chấp những khó khăn nguy hiểm của thời
cấm cách, nhất là từ thời chúa Trịnh Sâm (1767 – 1782). Tại bất
cứ nơi nào, cha cũng luôn nhiệt tình yêu thương, giúp đỡ mọi
người, nên ai cũng hết lòng thương mến. Cha khích lệ mọi người
thêm can đảm, cha an ủi những người buồn sầu, và không nề hà bất
cứ điều gì vì lợi ích thiêng liêng của họ.
Dầu thành công
trong công tác, cha Liêm không bao giờ tự mãn với chính mình.
Trong các thư của cha, ta còn đọc được : "Xin Đức cha và cha bề
trên cầu nguyện cùng Chúa cho con, khi dâng lễ và trong kinh
nguyện, để mỗi ngày con được hòan thiện hơn, vui lòng đón nhận
những khốn khó theo ý Chúa". Một ông hoàng, em thứ sáu của chúa
Trịnh Doanh trước khi từ trần đã lãnh bí tích Thánh tẩy nhờ công
của các vị thừa sai, cha Liêm đón nhận tin đó như niềm vui của
Giáo Hội Việt Nam, và loan báo cho bề trên Giám tỉnh ở Manila
(3).
Năm 1773, cha Vinh
Sơn Liêm đang đi giảng cho họ Lương Đống, chuẩn bị mừng lễ Đức
Mẹ Mân Côi. Các quan nghe tin, liền cho ông Điều Cam đem quân
vây bắt cha tại nhà ông Nhiêu Nhuệ ngày 02.10. Sau một trận đòn
chí tử, họ trói cha và hai cậu giúp lễ Matthêu Vũ, Giuse Bích,
rồi đem nộp cho Chánh tổng Xích Bích. Viên Chánh tổng giam cha
12 ngày không thấy các tín hữu đưa tiền chuộc, sau đó mới chịu
giải lên Phố Hiến nộp cho quan trấn. Ở đây cha Liêm gặp một linh
mục cùng dòng, cha Castaneda Gia đã bị giam ở đó. hai anh em
sung sướng cùng nhau chia sẻ ngọt bùi trong cảnh tù tội.
Ngày 20.10 quan
trấn bắt hai cha mang chiếc gông có ghi bốn chữ "Hoa Lang Đạo
Sư", rồi trao cho quan phủ Thần Khê giải hai cha và hai cậu giúp
lễ về kinh đô Thăng Long, ra mắt chúa Trịnh Sâm. Chính tại đây
đã diễn ra Hộ Đồng Tứ Giáo.
Có một quan lớn là
chú của chúa Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm. Mẹ của quan lớn, bà Thượng
Trâm, quê xứ Hải Dương, vốn có đạo. Nhiều lần bà khuyên con tòng
giáo. Quan lớn liền nảy ra sáng kiến triệu tập đại diện bốn tôn
giáo để trình bày về đạo của mình. quan nói: "Lòng ta chuộng sự
thật muốn biết đạo nào là đạo chính để thờ phượng". Cuộc trao
đổi kéo dài ba ngày, mỗi ngày một vấn đề về nguồn gốc con người,
mục đích cuộc đời và đời sau của mỗi người. cha Liêm và cha Gia
đại diện đạo Thiên Chúa đã khéo léo trình bày đến nỗi quan lớn
phải trầm trồ khen ngợi. Nhưng vì biết Phủ Chúa vẫn cấm đạo, nên
quan vẫn ngần ngại chưa theo (4).
Sau đó ít bữa, hai
cha có cơ hội để nói về đạo với Thái Tôn, mẹ của Chúa Trịnh Sâm.
Bà vì tò mò, đã cho vời các ngài vào. Không nói rõ nội dung buổi
nói chuyện ra sao, nhưng cuối cùng Thái Tôn hỏi: "Nếu chỉ có đạo
các thày là đạo thật thì những người không theo đạo ấy, chết rồi
đi đâu?". Cha Liêm đáp: "Bẩm bà, sa hỏa ngục ạ".(5) Nghe thế,
Thái Tôn Dương Hậu đùng đùng nổi giận, bà dùng uy tín ép con là
Tĩnh Đô Vương phải xử tử hai vị linh mục. Do đó, ngày 04.11,
Tĩnh Đô Vương đã lên án trảm đã lên án trảm quyết hai cha, hai
cậu giúp lễ bị kết án lưu đầy, đến khi nộp 100 quan tiền chuộc
thì được trả tự do.
Ngày 07.11, hai
cha bị đem đi xử, dân chúng đi xem rất đông. Khi đoàn người dừng
trước hoàng cung, một viên quan đọc bản án. Theo phong tục thời
đó, lúc này vua có thể ân xá cho tội nhân. một viên quan khác
lớn tiếng nói : "Hoa Lang Đạo đã bị nghiêm cấm, nhưng cho đến
nay, chưa người dân Việt nào bị xử tử vì đạo này (6) nên vua đại
xá cho tên Liêm". Nghe thế cha Liêm vội lên tiếng thưa rằng:
"Cha Gia bị án
trảm quyết vì lẽ gì thì cũng phải lên án trảm quyết cho tôi vì
lẽ đó. Cha Gia là đạo trưởng, tôi cũng là đạo trưởng. Nếu luật
nước không kết án tôi thì cũng không được kết án cha Gia. Vì tôi
là công dân nước Việt, lẽ ra tôi phải giữ luật nước hơn ngài.
Nhưng nếu giết cha Gia, còn tôi lại tha, án của vua không công
bằng. Yêu cầu tha thì tha cả hai, giết thì giết cả hai. Thế mới
là án công bình".
Những lời lẽ minh
bạch của cha Liêm có thể là phát xuất từ tình nghĩa huynh đệ,
không muốn xa lìa người anh em, cũng có thể là lời xin tha cho
linh mục bạn, vì nhiều người chứng kiến cảm động và muốn cả hai
cha được tha. Nhưng lời lẽ đó cũng có thể do lòng ao ước muốn
dâng hiến chính mạng sống mình để làm chứng cho sự thật.
Dầu sao thì bản án
vẫn không thay đổi. Hai vị anh hùng đức tin đã vui mừng đọc kinh
Tin Kính và hát kinh Lạy Nữ Vương trên đường ra pháp trường Đông
Mơ. Những nhát gươm định mệnh, chứng tá tuyệt hảo cho Đức Kitô.
Thi hài các ngài được rước về an táng tại Trung Linh.
Ngày 20.05.1906
Đức Piô X suy tôn các ngài lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988,
Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Riêng thánh Vinh
Sơn Phạm Hiếu Liêm, nhiều trường học đã nhận ngài làm Bổn Mạng,
trong đó có trường cao đẳng Juan de Letran ở Phi Luật Tân, nơi
ngài từng là học sinh. Thánh nhân quả là ánh vinh quang của dân
tộc Việt nơi hải ngoại.
Nguồn từ thư
viện Đa Minh
Trường thi tử Đạo.
Giacintô Gia thừa
sai linh mục
Năm Quý Hợi (1743) quê thực (Tây) Ban Nha
Bạn thơm trong lúc xa nhà
Cũng chức linh mục tên là Phạm Liêm
Linh mục Liêm quê hương Trà Lũ
Sinh Nhâm Tý (1732) quê phủ Thiên Hương
Giảng rao lời Chúa đảm đương
Trong thời cấm đạo lệnh thường cấm nghiêm
Hai linh mục Gia, Liêm tử đạo
Là Thừa sai loan báo đức tin
Người Tông đồ Chúa dõi tìm
Từ khi tuổi nhỏ đã xin nhập dòng
Hết trung học vào trong tu viện
Mười bảy tuổi trực diện khấn xong
Trao dồi tu đức cầu mong
Thừa sai giảng đạo thuộc dòng Ðaminh
Ðược tuyển mộ nhiệt tình hăng hái
Cậu lắng lo ái ngại mẹ già
Báo tin anh, em đã đi xa
Nhờ huynh coi sóc mẹ già chốn quê
Hai năm chuẩn tràn trề ơn gọi
Ðược thụ phong Chúa rọi ơn thiêng
Cha Gia sứ mạng rao truyền
Á Ðông tiên khởi là miền Trung Hoa
Rồi sau đó học đà tiếng Việt
Lén lút vào tới miệt Bắc Kỳ
Giúp cho kẻ liệt Cha đi
Giữa đường chúng bắt tức thì trục ngay
Về Macao đất này Trung Quốc
Bề trên sai Cha thuộc Việt Nam
Vâng lời ý Chúa đã ban
Trung Linh phục vụ cộng đoàn giáo dân
Số tín hữu xa gần đông đúc
Trên chục ngàn diễm phúc ba Cha
Hai Cha Việt, với Cha Gia
Sáu mươi họ đạo thật là quá đông
Dù vất vả Ngài không quản ngại
Giúp đỡ người trở lại đức tin
Ba Cha cộng tác hướng tìm
Thoát tay kẻ cướp tránh nhìn lính quan
Giúp kẻ liệt gian nan khó tránh
Ðến làng Non, gặp cánh Lê Ðô
Tên tướng cướp chúng ập vô
Cha con bỏ chạy trốn vô làng này
Làng Kẻ Gia mới hay Phật Giáo
Một bà già chu đáo nhận ngay
Giấu cha mới được một ngày
Giúp Cha ẩn trốn, chẳng may chồng về
Sợ liên lụy ông Bê tố giác
Với Lê Ðô giáo mác bắt Cha
Chúng đấm đá đè xuống nhà
Trói tay dẫn giải đi qua nhà mình
Hắn xỉ nhục coi khinh nhân nghĩa
Không cho ăn, tứ phía đòn roi
Hai ngày bỏ đói chẳng coi
Thí cho chút cháo có mòi tỉnh hơn
Cha nhắn gởi cám ơn đừng chuộc
Cướp Lê Ðô bắt buộc giải quan
Nhốt cũi tre thật dã man
Ðem ra phơi nắng chói chan trưa hè
Có một nhóm tin nghe tìm đến
Học tinh thông cập bến luận tranh
Cha Gia đạo lý rất rành
Rất hay triết lý lẹ nhanh kịp thời
Con quý tử tới nơi chửi rủa
Ngã vật ngay nằm ngửa van xin
Chính quan thấy vậy đứng nhìn
Muốn đòi tiền chuộc nói tìm giáo dân
Năm trăm quan một lần trao đủ
Sẽ trả ông thân chủ tự do
Thả không thì thả thì cho
Về kinh chẳng sợ, chẳng lo, chẳng phiền
Sau hai tháng giam miền Kẻ Bích
Thân xác Cha vết tích roi đòn
Tinh thần sa sút héo hon
Khô khan cầu nguyện xói mòn niềm tin
Trong cũi chật mới nhìn tưởng khỉ
Giải về kinh chước quỷ mưu ma
Xin ơn phù trợ Cha Gia
Qua cơn bão táp mưa sa giãi dầu
Linh hồn cảm thấy sầu thống khổ
Sợ ngã lòng Chúa đổ Thánh Linh
Cho con gánh chịu cực hình
Khẩn cầu Ðức Mẹ Ðồng Trinh hộ phù
Ðang khi đó lù lù cũi khác
Cha Sơn Liêm hốc hác ngồi trong
Người bạn cùng học tu dòng
Là niềm khích lệ ở trong nhà tù
Sau lính giải Thầy Tu về phủ
Áp tải Cha đông đủ quân binh
Trước tòa quan lớn tâu trình
Huyện quan lầm tưởng là mình có công
Quan lớn nói giao ông giam giữ
Phải thả ra và cử người canh
Lệnh trên nghiêm túc tuân hành
Cùm gông xiềng xích chỉ dành vật thôi
Tại Phủ Chúa liên hồi thăm viếng
Khắp giáo dân nghe tiếng các Ngài
Thời cơ giảng đạo Chúa sai
Huyện quan tức bực la hoài đuổi đi
Ít sau đó Sư đi tranh luận
Cụ Ðồ Nho mãi tận nơi xa
Gay go đối chất với Cha
Ðây là ý muốn của bà Thượng Trâm
Mong Hoàng Tử sưu tầm đạo thật
Là đề tài đệ nhất đưa ra
Con người nguồn gốc đó mà
Trần gian cuộc sống chúng ta làm gì
Sau khi chết còn chi hay hết
Cuộc luận tranh đúc kết vô tư
Hội đồng tứ giáo danh sư
Xin coi cuốn sách rất ư rõ ràng
Hai đạo trưởng hiên ngang trảm quyết
Tại pháp trường thắm thiết chúc nhau
Phép lành trao đổi đời sau
Lý hình đầu chém phép mầu Chúa ban
Vác Thánh giá thế gian đã trọn
Chúa thưởng công đã chọn hai Cha
Ðón về Nhan Thánh Thiên Tòa
Tử đạo Quý Tỵ (1773) chan hòa đức tin
Lời bất hủ: Chánh tổng làng Gia Ðạo là Xích Bích quan đòi
3 ngàn tiền chuộc. Cha đáp: "Quan muốn tha thì tha chứ tôi không
có tiền chuộc. Tôi sẵn sàng chịu mọi gian khổ kể cả cái chết".
Chánh tổng nộp lên quan trấn, quan trấn truyền đóng gông với
dòng chữ "Hoa Lang Ðạo Sư" (thời đó, 1773 còn gọi đạo Công giáo
là Hoa Lang và gọi các Linh mục là Ðạo Sư). |