Mục tử
nhân lành.
"Chúng tôi đã từ
bỏ gia đình, quê hương và tất cả lợi lộc trần thế, để chỉ truyền
giảng Tin Mừng".
Từ chối chức quan
do chính vua Minh Mạng trao ban, cha Gagelin Kính chứng tỏ mình
chỉ mong thi hành xứ mệnh linh mục cao quý "Loan báo tin mừng
cho muôn dân" (Mc 13,10). Lòng nhiệt thành mục tử thúc bách ngài
không ngừng đi khắp nơi để ban phát các bí tích. Chính vì yêu
thương giáo hữu, ước mong họ được bình an, cha đã tự nguyện hiến
mình vì đoàn chiên (Ga. 15,13). Ngài thực là gương mẫu sáng ngời
cho các thế hệ.
Túp lều
Việt Nam hơn hoàng cung nước Pháp.
Isidôrô Gagelin
sinh ngày 10.5.1799, tại Montperreux, giáo phận Besancon, nước
Pháp. Cậu Gagelin có ý tưởng theo ơn thiên triệu ngay từ nhỏ, và
từng tâm nguyện "Tôi muốn làm linh mục". Lớn lên, sau bốn năm
học đại chủng viện giáo phận, năm 1819, thày gia nhập Hội Thừa
Sai Paris. Tháng 9.1821, Đức cha Labartette Bình, Giám mục giáo
phận Đàng Trong, truyền chức linh mục cho thày Gagelin Kính, khi
mới 22 tuổi.
Thời ấy, vua Minh
Mạng mới lên ngôi, bầu khí tự do tín ngưỡng do vua cha (Gia
Long) để lại chưa phai nhạt. Linh mục Gagelin Kính vừa nhận chức
giáo sư chủng viện An Ninh, Quảng Trị, vừa thi hành công tác mục
vụ tại vùng lân cận. Cha gửi tâm sự về quê nhà năm 1823: "Những
thiếu thốn, những cực nhọc đủ thứ đến với chúng tôi, nhưng tôi
dám khẳng định rằng: tôi được hạnh phúc trong túp lều tranh của
tôi hơn vua nước Pháp ở trong hoàng cung của ngài".
Dần dần vua Minh
Mạng áp dụng chính sách bách hại đạo ngày càng mãnh liệt hơn. Bề
trên Thomassin đã phải di tản chủng viện An Ninh và cử cha Kính
vào Sài Gòn, là khu vực Tả quân Lê văn Duyệt không áp dụng đường
lối bài Công Giáo. Cha thường thực hiện sứ vụ tông đồ nơi các họ
đạo vùng Sài Gòn, Bà Rịa, và đào tạo chủng sinh tại Lái Thiêu.
Ngôn sứ
Tin Mừng
Năm 1827 cha Kính
được vua Minh Mạng triệu về kinh cùng với các giáo sĩ Tây phương
khác. Vua lấy cớ cần người dịch sách và làm thông ngôn cho triều
đình, nhưng với hậu ý cản ngăn việc truyền giáo.
Nhận được lệnh
triệu tập thứ ba, cha Kính mới lên đường về kinh đô. Tại đây,
cha gặp hai thừa sai khác là cha Tabert Từ, cũng thuộc Hội Thừa
Sai Paris và cha Odôricô Phương, dòng Phanxicô, đã trình diện
nhà vua trước ngài.
Để trấn án hoặc để
có thể che giấu ác ý, nhà vua đề nghị ban chức quan cho các cha,
nhưng các cha từ chối. Cha Kính bày tỏ lập trường trong thư gửi
về Pháp :
"Tôi nói dứt khoát
với ông quan do vua sai đến ban ân huệ cho chúng tôi. Tôi cho
ông biết rõ mục đích chúng tôi sang đây làm gì, và chức linh mục
cao trọng hơn chức quan dường nào. tôi cũng nói rõ chúng tôi đã
từ bỏ gia đình, quê hương và tất cả những lợi lộc trần gian để
chỉ truyền giảng Tin Mừng thì không dễ gì chúng tôi từ bỏ nhiệm
vụ này. Tuy nhiên, những công việc nào có thể dung hòa với nhiệm
vụ của chúng tôi thì chúng tôi sẵn sàng giúp đỡ nhà vua".
Tả quân Lê Văn
Duyệt, người đã tống đạt lệnh vua và khuyên ba giáo sĩ Tây
Phương về kinh đô, khi nhận thấy các ngài bị giam lỏng, chính
ông đã về triều đình vào tháng 8 năm 1827 để thuyết phục vua
Minh Mạng giữ lời hứa. Tuy không muốn, nhà vua buộc lòng phải
trả tự do cho ba linh mục.
Ngày 01.6.1828,
cha Kính lên đường trở về Đồng Nai, rồi đi thăm viếng các họ đạo
tại miền Nam, từ Đồng Nai, Vũng Tàu đến miền Lục Tỉnh, Hà Tiên.
Ngài vừa lo hướng dẫn chăm sóc dân Chúa, vừa truyền giảng tin
Mừng cho dân tộc Chàm ở Bình Thuận và Campuchia ở Bắc Hà Tiên.
Nhưng các sắc dân này tin theo đạo rất ít. Năm 1829, ngài trở về
chủng viện Lái Thiêu, được Đức cha Talbert Từ bổ nhiệm làm Bề
trên giáo phận và cử ra hoạt động ở miền Trung.
Hiến mình
vì đoàn chiên
Cha Bề trên Kính
bắt dầu hoạt động mục vụ tại tỉnh Phú Yên, rồi tới Bình Định,
Quảng Ngãi (1830). Cha đi bộ từ họ này sang họ khác, dầu xa hay
gần, lớn hay nhỏ để giảng dạy, dâng lễ, giải tội và ban phép
thêm sức cho các giáo hữu. Tất cả những ai quen biết cha, và làm
chứng trong cuộc điều tra phong thánh, đều đồng thanh khen ngợi
đức hiền từ, lòng đạo đức, tinh thần khó nghèo khổ hạnh và chính
trực trong đời sống của ngài.
Ngày 06.01.1833,
vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm đạo gắt gao. Nhiều thân hữu
khuyên cha nên tạm hồi hương một thời gian, cha thẳng thắn trả
lời : "Một công dân có nhiệm vụ thi hành nghĩa vụ quân sự, huống
chi tôi được trao chức vụ lãnh đạo, sao có thể thoái thác trách
nhiệm của mình được". Thế là dù thời buổi khó khăn, cha vẫn tiếp
tục hăng say trong sứ mệnh, thăm hỏi an ủi giáo dân, giảng đạo
và rửa tội nhiều người Thượng ở Bình Định. Được một vị quan thân
hữu mật báo sẽ có cuộc truy bắt các linh mục Tây Phương, cha lẩn
tránh ít lâu. Nhưng khi thấy nhiều giáo hữu bị bắt bớ, đau lòng
trước cảnh đàn chiên tan tác, cha liền viết thư xin phép đức
Giám mục cho ngài ra nộp mình, hy vọng nhờ đó giáo hữu khỏi bị
bách hại. Đức cha Từ chấp thuận. Thế là ngài đến trình diện với
quan tri huyện Bồng Sơn (Bình Định) vào tháng 5.1833, sau đó cha
bị giải về kinh đô.
"Tôi muốn
thành tro bụi để kết hiệp với Đức Kitô".
Đến Huế ngày
23.8.1833, cha bị giam ở trấn phủ với cha Jaccard Phan, cũng
thuộc Hội Thừa Sai Paris và cha Odôricô Phương, dòng Phanxicô,
bị bắt ở Cái Nhum. Cha Phương qua đời năm 1834 sau sáu tháng lưu
đày ở khu đèo Lao Bảo, ranh giới Ai Lao.
Suốt bẩy tuần lễ
bị giam cầm, cha Bề trên Kính không bị thẩm vấn lần nào. vua
Minh Mạng đã quá rõ, không thể lay chuyển đức tin can trường của
cha.
Kể từ ngày 12.10,
quân lính xiềng xích chân tay cha, canh gác nghiêm ngặt hơn và
cấm không cho giao tiếp với người khác. Linh mục Jaccard Phan,
nhờ có liên hệ với triều đình, báo tin cho cha biết ngày hành
quyết sắp đến. Cha Kính liền gửi thư phúc đáp, bày tỏ niềm hân
hoan vô tả khi được đổ máu làm chứng cho Chúa. ngài cũng nhờ cha
Phan thông báo cho Đức Giám mục, cho các Bề trên Hội Thừa Sai
Paris và gia đình. Cha viết tiếp : "Tôi từ giã cõi đời không hề
thương tiếc sự gì, chỉ nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh, đủ an
ủi tôi về mọi điều đau khổ và cả cái chết nữa. Tất cả ước vọng
của tôi là sớm thoát khỏi thân xác tội lỗi này, để kết hợp cùng
Chúa Giêsu trong nơi vĩnh phúc. Tôi muốn thành tro bụi để kết
hiệp với Chua Giêsu".
Vua Minh Mạng giữ
bí mật bản án đến phút chót. Sáng sớm ngày 17.10.1833, một đội
lính đến ngục thất, áp giải cha Kính, họ còn nói rằng cha được
mời sang ngục khác. Cha hiểu ngay giờ sau hết đã điểm, cha hỏi:
"Có phải các ông đưa tôi đi xử tử không ?" Họ đáp: "Thưa phải".
Thế là ngài vui vẻ mau mắn cùng đòan hành quyết lên đường. Đến
đầu cầu ngăn cách kinh thành với khu ngoại ô Bãi Dâu, bốn người
lính đỡ bốn góc chiếc gông nặng nề đè lên cổ vị tử đạo. Các lính
khác võ trang gươm giáo đi hai bên, hai quan lớn cưỡi ngựa đi
sau, dân chúng đi xem rất đông. Một người lính giơ cao tấm thẻ
ghi bản án. Cứ đi khoảng một trăm bước, người lính đó dừng lại,
đánh mấy tiếng cồng, rồi đọc bản án như sau:
"Dương nhân Hoài
Hóa mang tội truyền giảng đạo Gia Tô tại nhiều tỉnh nước ta, nên
phải xử giảo" (Hoài Hóa là chữ Hán do các quan dịch tên cha
Gagelin).
Đến pháp trường,
vị linh mục bình tĩnh quỳ xuống cầu nguyện, mặc cho quân lính
thi hành nhiệm vụ. Họ trói ngài vào chiếc cọc giữa, lấy giây
vòng quanh cổ, rồi cuốn hai đầu dây vào hai cọc hai bên. Hiệu
lệnh thứ nhất ban ra, tiểu đội quân lính cầm lấy hai dầu dây.
Đến hiệu lệnh thứ hai, họ kéo thật mạnh, trong khoảnh khắc, vị
chứng nhân Chúa Kitô chút hơi thở cuối cùng.
Một học trò cũ của
cha Odôricô và một thày giảng của cha Phan xin phép nhận thi hài
thánh tử đạo đem về an táng tại một tư gia ở phủ Cam. Vì nghi
ngờ môn đệ Chúa Kitô sống lại sau ba ngày, vua Minh Mạng truyền
khai quật mồ vị tử đạo, khám nghiệm kỹ lưỡng, rồi mới yên lòng
cho chôn lại. Thế mà vẫn phân vân, vua truyền cho dân làng Phủ
Cam trông canh giữ mồ, nếu vị tử đạo sống lại, hay người ta lấy
mất thi hài, họ sẽ phải đền mạng. Trong các thư của cha Phan và
Đức cha De la Motte Hậu có ghi chép sự việc hy hữu trên.
Năm 1946, thi hài
thánh tử đạo Gagelin Kính được đưa về chủng viện Hội Thừa Sai
Paris.
Ngày 27.05.1900,
Đức Lêo XIII đã suy tôn ngài lên bậc Chân Phước. Ngày
19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Nguồn từ thư
viện Đa Minh
Trường thi tử Đạo.
Gagelin Kính thừa
sai linh mục
Sinh Kỷ Dậu (1799) quê thực Paris
Từ nhỏ bày tỏ hướng đi
Tu làm linh mục quản gì khó khăn
Mười hai năm phổ thông trung học
Và bốn năm đại học chủng sinh
Thầy về xin phép cha mình
Cho thầy gia nhập gia đình thừa sai
Thầy vốn có cái tài thuyết nói
Năm Kỷ Mão (1819) hội gọi thầy ngay
Việt Nam truyền đạo xứ này
Ðặt tên là Kính từ ngày mới sang
Giúp các cha mở mang xứ đạo
Cùng hội dòng kiến tạo tân trang
Giáo dân trong họ ngoài làng
Mỗi khi cần đến thầy càng chăm lo
Ðức Cha Bình ban cho thầy Kính
Trong dịp này con lãnh chức cao
Linh mục con được ban trao
Từ xưa thầy vẫn ước ao có rày
Vừa nhận chức trao ngay mấy xứ
Cũng xung quanh Thị tứ Ðông Hà
Bên ngoài công việc của cha
Giáo sư Chủng viện thật là giỏi giang
Cuộc bách đạo ngày càng mãnh liệt
Tình thế này Chủng viện bất an
Ðức Cha linh mục họp bàn
Di dời Chủng viện bình an Sài Gòn
Ðến đặc khu cha con tướng Duyệt
Là tả quân ông thiệt từ tâm
Không bắt bớ chẳng giam cầm
Ðể người Công giáo tuỳ tâm kính thờ
Ở Quảng Trị bầy giờ cha Kính
Phải theo vào cha Chính khuyên ngài
Giáo sư vào hạng thiên tài
Lo cho Chủng viện trong ngoài cũng cha
Năm Ðinh Hợi (1827) vua ra lệnh triệu
Cha về kinh danh hiệu chức quan
Công việc dịch sách thông ngôn
Ðây là một cách giam luôn nhân tài
Cha Kính quyết một hai không chịu
Rằng tôi đây chính hiệu thầy tu
Giảng đạo Chúa rỗi thiên thu
Tôi đâu có phải người ngu ham tiền
Sau về được nhờ hiền quân Duyệt
Ông về triều can thiệp cho ra
Sài Gòn hoạt động bao la
Hà Tiên, Lục Tĩnh vào ra Vũng Tàu
Ðức Cha Từ về sau bổ nhiệm
Ðiều cha ra thực hiện miền Trung
Phú Yên, Bình Ðịnh hai vùng
Sau ra Quảng Ngãi cha cùng giảng rao
Ðường xa mấy không sao đi bộ
Cha hết lòng dạy dỗ giáo dân
Rửa tội, thêm sức chuyên cần
Thường cha đi bộ đôi chân không giày
Lệnh cấm đạo mỗi ngày một gắt
Suốt đêm ngày lùng bắt các cha
Ban ngày chẳng dám đi ra
Ðọc kinh, dâng lễ chỉ là ban đêm
Nhiều giáo hữu có tên lùng bắt
Về tội danh dẫn dắt các cha
Ngài viết thư về Tổng Toà
Xin cho được phép ngài ra nộp mình
Ðức Cha Từ thuận tình chấp nhận
Ðến nộp mình địa phận Bồng Sơn
Cha Kính khai rõ họ tên
Quan huyện mừng quá giải liền về kinh
Cha đến Huế vô tình mà gặp
Bốn bạn xưa thân mật đổi trao
Năm vị ai cũng ước ao
Ðến ngày tử đạo trời cao rước về
Ngày xử án cận kề di chuyển
Ðến Bãi Dâu thực hiện lệnh vua
Mấy câu khẩu hiệu tung hô
Dương quân hoài hoáGia-tô tử hình
Năm Quý Tỵ (1833) chứng mình của Chúa
Chịu tử hình tuyên hứa Nước Cha
Canh Tý (1900) Toà Thánh Rôma
Suy tôn Chân phước danh Cha lưu truyền
Lời bất hu: Những người thân khuyên cha hồi hương tạm
lánh một thời gian cha thẳng thắn trả lời: "Một công dân có
nhiệm vụ thi hành nghĩa vụ quân dịch, huống chi tôi được trao
trách nhiệm lãnh đạo, sao có thể thoái thác trách nhiệm của mình
được. Chỗ khác Ngài khẳng định: "Tất cả ước vọng của tôi là sớm
thoát khỏi thân xác tội lỗi này, để kết hiệp cùng Chúa Giêsu
trong nơi vĩnh phúc |