Người tù già hy sinh tự nguyện
Mùa thu năm 1838 tại nhà giam Nam Định, một tù nhân đã 83 tuổi
hình như vẫn coi sự khác nghiệt của trại giam là nhẹ. Những đêm
mưa to gió lạnh, chỗ của cụ nằm bị nước mưa giột, nhưng cụ vẫn
không chịu dời chỗ khác theo lệnh của lính canh. Từ ngày vào tù,
cụ trải chiếu dưới đất, không nhận tiếp tế chăn mền, rồi khoảng
một tuần sau, cụ bỏ luôn chiếu để nằm trên đất.
Cụ
già đó là linh mục Bênadô Vũ văn Duệ. Đối với ngài, phải có
những hy sinh tự nguyện để bổ túc cho những hy sinh bất đắc dĩ.
Những hy sinh đó là những phương pháp luyện ý chí để đủ sức đối
đầu với những thử thách cuối cùng ngoài pháp trường. Đối với
ngài, suy niệm cuộc thương khó của Chúa Giêsu phải dưa đến việc
tham dự, chia sẻ những nỗi cơ cực các Chúa trong thực hành. Cha
nói: "Nơi tôi nằm bây giờ còn êm ái hơn thánh giá Chúa Giêsu xưa
kia nhiều".
Vị linh mục khắc khổ
Bernadô Vũ Văn Duệ sinh năm 1755 tại làng Quần Anh Hạ (Quần
Phương), tỉnh Nam Định, trong một gia đình Công Giáo. Ngay từ
nhỏ, cậu Duệ đã dâng mình cho Chúa, và chuẫn bị học hành hướng
tới chức linh mục. Nhưng việc học của cậu bị gián đọan nhiều lần
vì tình hình bách hại các chúa Trịnh và thời vua Cảnh Thịnh. Mãi
đến năm 1795, thày Duệ mới được toại nguyện, thụ phong linh mục
đã 40 tuổi. Cha Duệ phục vụ Giáo Hội và các linh hồn trong nhiệm
vụ mục tử suốt 37 năm. Đến năm 1832, năm ngài 77 tuổi, Đức Cha
xét thấy tình trạng bệnh tật, đã cho cha về hưu tại xứ Trung Lễ.
Không thể phục vụ Giáo Hội trực tiếp nữa, cha Duệ đã dâng những
ngày tháng bệnh tật để cầu nguyện cho Giáo Hội. Tuy đã già, mỗi
ngày cha vẫn tiếp tục đọc, suy niệm, chia sẻ Tin Mừng và hướng
dẫn cho các tín hữu trong vùng tìm đến bàn hỏi. Cha gia tăng
những việc khổ chế hãm mình : bỏ nằm giường để ngủ trên đất,
không nằm mùng để muỗi tự do đốt… nhiều người cản trở vì lo cho
tuổi già của cha, cha trả lời : "Bấy nhiêu hãm mình đã là gì ?
Tôi không có cơ hội dể làm việc lớn thì tôi chọn lựa một chút
khó khăn vậy thôi".
Giá trị một lời hứa
Từ
ngày vua Minh Mạng lệnh cho quan Trịnh Quang Khanh gắt gao truy
lùng các giáo sĩ, Đức Cha Delgado Y, Giám mục giáo phận Đông
phải bỏ trụ sở Bùi Chu đi trốn. Một hôm trên đường xuống Kiên
Lao, Đức Cha ghé vào Trung Lễ gặp cha Duệ. Đức Cha nói nửa đùa
nửa thật : "Cụ còn sức theo tôi đến thủ phủ Nam Định chăng ?".
Cha Duệ hiểu ý người cha chung giáo phận muốn nói về việc tử
đạo, nên trả lời : "Thưa Đức Cha, khi nào Đức cha bị bắt, xin
cho phép con theo cùng".
Có
lẽ vị Giám mục nói đùa rồi quên đi, nhưng cha Duệ không bao giờ
quên điều mình đã nói. Từ ngày 28.05.1838, khi nghe tin Đức cha
bị bắt ở Kiên Lao, cha Duệ đã khóc lóc và muốn ra trình diện với
quan quân để được tử đạo với Giám mục của mình. lúc đó cha đã 83
tuổi, mắt thì lòa nên đi đâu phải có người dẫn, thế nhưng không
ai chịu đưa cha đến nộp cho các quan cả.
Cũng từ đó, nằm trong nhà, hễ nghe có tiếng chân người bên
ngoài, cha lại hô lên: "Hãy báo tin cho các quan biết tôi ở đây.
Tôi là linh mục, hãy đến mà bắt tôi". Các giáo hữu xin cha thinh
lặng kẻo liên lụy đến dân làng. Cha đáp: "Tôi không thể im được
vì tôi đã hứa với Đức cha". Một hôm lính đi qua, nghe tiếng cha
gọi thì bước vào. Cha nói: "Bây giờ các ông đã có linh mục, hãy
bắt mà nộp cho quan đi". Một thày giảng đứng đó liền nói: "Ông
nội tôi đó, các ông đừng để ý làm gì, ông ấy già nua nên lú lẫn,
tự cho mình là linh mục đó thôi". Cha Duệ thanh minh rất tỉnh
táo chớ chưa lẩm cẩm. Nhưng lính thấy cụ già đã ngoài 80 tuổi,
nằm liệt trên giường như thế thì tin lời thày giảng rồi bỏ đi.
Quân lính đã xa rồi mà cha già Bernadô cứ lẩm bẩm phàn nàn vì
người ta đã làm cha mất cơ hội bị bắt.
Những ngày sau đó, cha Duệ vẫn tiếp tục la lên yêu cầu mội người
đi ngang báo cho quan đến bắt mình. Các tín hữu thấy không cản
được ngài nữa thì bàn tính với nhau, họ đưa cha đến một túp lều
của một người cùi ở ngoài đồng, nhờ một bà đạo đức chăm sóc cơm
nước. Họ nghĩ rằng quân lính chẳng đến khu vực đó. không ngờ
ngày 04.07.1838, một toán lính vô tình đi ngang qua nghe tiếng
cha đã ghé vào. Cha nói "Các chú tìm đạo trưởng hả ? Tôi là đạo
trưởng đây". Không có ai ở đó để cải chính như hôm trước, nên
cha bị bắt đem về nộp cho Tổng đốc Trịnh Quang Khanh.
Vững như bàn thạch
Tổng đốc thấy lính dẫn đến một người quá già nua tuổi tác thì
cười, rồi cho đặt tấm ảnh Chúa trên đất và nói : "Ông lão bước
qua tấm ảnh đi, ta sẽ tha cho về". Cha Duệ đáp: "Xin quan lớn
đừng bảo tôi làm thế, dù thế nào tôi chẳng thể vâng lời quan".
Bấy giờ trời đã gần tối, quan cho giam cha trong một ngôi chùa
gần đó và bỏ đói suốt đêm. Sáng hôm sau lính giải cha về Nam
Định. Viên quan án ở đây cũng để một Thánh Giá yêu cầu cha bước
qua. Cha trả lời ông như đã nói với quan Tổng đốc. Viên quan tội
nghiệp tuổi già nên không đánh đập gì, như bắt cha phải mang
gông và cho đưa vào trại giam.
Gần hai tháng trong tù, nhiều lần quan cho người vào dụ dỗ cha
bỏ đạo, nhưng cha cương quyết từ chối. Những ngày đầu trong trại
giam trật hẹp, hôi hám, cha Duệ phải trải chiếu dưới đất ngủ, có
người thương đem đến biếu cha một chiếc chăn để quấn cho ấm, cha
từ chối và nói: "Nơi tôi nằm bây giờ còn êm ái hơn Thánh Giá
Chúa Giêsu xưa nhiều". Có một hôm mưa giột ướt hết nơi cha nằm,
lính đến bảo cha dời chỗ, cha không chịu: "Cứ để tôi ở chỗ ướt
này cũng được, không can chi. Tôi chỉ lo những sự đời sau và ước
ao đổ máu vì dạo Chúa Kitô thôi".
Ngày 12.07, Đức cha Y đã lìa thế, ly trần trong ngục nhưng vẫn
bị đem ra pháp trường xử chém. Nghe tin đó, cha Duệ bỏ luôn
chiếu, ngủ trên đất. Cha nói: "Giám mục là cha đã phải xử, ta là
con nằm chiếu sao phải lẽ". Cha Duệ đã chọn những hy sinh tự
nguyện để dọn mình đón nhận cuộc tử đạo. Thời gian này cũng có
cha Hạnh, linh mục dòng Đaminh bị giam chung. Cha Hạnh trẻ hơn,
mới 66 tuổi nên thường thay mặt cha già trả lời cho các quan.
Sau khi thấy không làm hai vị đổi ý được nữa, các quan liền làm
án gởi về kinh đô:
"Chúng tôi đã tra khảo hai tên Vũ Văn Duệ và Nguyễn Văn
Hạnh. Chúng đã bị bọn Tây lừa mà theo đạo Gia Tô từ lâu. Chẳng
những chúng tin mà còn giảng đạo ấy cho nhiều kẻ khác tin theo
nũa… Xem ra đạo ấy đã thấu tận tâm can bọn chúng đến nỗi không
thể bỏ được. Vậy chúng tôi luận cho chúng án trảm quyết, để ai
lấy đều biết tội chúng nặng, đáng phải phạt thể ấy".
Chiến thắng vinh quang
Theo luật thời đó, ở tuổi cha Duệ 83 lẽ ra không bị xử tử, nhưng
vua Minh Mạng bất chấp cả luật lệ, ký bản án liền. nghe tin ấy,
cha Duệ tỏ ra vui mừng, gia tăng việc hãm mình chuẩn bị cho ngày
hồng phúc cha vẫn mong đợi. Ngày 24.07, quan cho tách riêng cha
Hạnh đi giam nơi khác. Nhưng ngày 01.08, hai vị cùng được đưa ra
tòa lần chót trước khi đưa đi xử. Cả hai vị đều khẳng khái tuyên
xưng niềm tin vào Thiên Chúa. cha Duệ và quá yếu sức, lính phải
cáng ra pháp trường Bảy Mẫu. Ra đến cửa thành, vì viên quan chủ
tọa cuộc xử án chưa đến, hai linh mục phải đứng ngoài nắng mấy
giờ liền. một người đưa cha Duệ một chiếc chiếu nhỏ để che nắng,
cha cảm ơn từ chối. Suốt hành trình, cha làm dấu Thánh Giá nhiều
lần và cầu nguyện cách sốt sắng.
Đến nơi hai vị cầu nguyện chung một lát. Sau đó, lính tháo gông
xiềng xích và trói hai vị vào cọc. Theo lệnh quan, hai lý hình
thi hành phận sự, chém và tung đầu lên cho mọi người trông thấy.
Dân chúng ùa vào thấm máu hai vị tử đạo. Quân lính chôn cả đầu
lẫn xác tại pháp trường, sau các tín hữu xin phép được đưa thi
hài về an táng tại Lục Thủy.
Thế là cha Duệ đã thực hiện trọn vẹn lời hứa với vị Giám mục Y:
Đi theo ngài đến cùng, để rồi chung hưởng hạnh phúc trường tồn
trên Thiên Quốc.
Cùng với vị Giám mục của mình, Đức cha Y, linh mục Bernadô Vũ
Văn Duệ được Đức Lêo XIII suy tôn lên bậc Chân Phước ngày
27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài
lên bậc Hiển thánh.
nguồn từ Tu
Viện Đa Minh
Thánh Ca Tử Đao
Bênađô Vũ Văn Duệ linh mục
Năm Ất Mùi (1755) quê thực Quỳnh Anh
Thời cấm đạo bọn lưu manh
Truy lùng đạo trưởng chỉ canh kiếm tiền
Cha đâu trốn, chẳng phiền, chẳng sợ
Nghe tiếng chân đi ở bên ngoài
Ta đây đạo trưởng sợ ai
Cứ vào mà bắt, quan cai đón chờ
Lính bữa nọ bất ngờ nghe thấy
Chúng vào ngay, bữa ấy có Thầy
Nhận là ông nội tôi dây
Già nua lẩm cẩm, nói vầy đó thôi
Lính thấy vậy nghe rồi cũng bỏ
Cha còn la kêu nó lại đây
Uổng thay cơ hội quý này
Trách Thầy lẩm bẩm, tại Thầy hại ta
Các tín hữu thấy là khó cản
Ðưa ra lều làm tạm cánh đồng
Người cùi bà lão coi trông
Ðưa Cha ra đó mới không sợ phiền
Ðược ít lâu có liền đám lính
Chúng đi qua nghe thính tiếng la
Liền ghé vào nhìn thấy mà
Tôi đây đạo trưởng, quan đà bắt đi
Chúng trói giải cấp kỳ Tổng Ðốc
Tại thành Nam cấp tốc tống giam
Lính canh tra tấn dã man
Ra tòa quan dụ sẵn sàng nghe đây
Hãy bước qua cây này được thả
Cha trả lời tôi chả nghe quan
Tông đồ mục vụ tôi làm
Việc gì phản Chúa, rõ ràng tôi không
Quan thấy vậy đeo gông khỏi đánh
Vì tình thương nên tránh tuổi già
Pháp trường đâu có đi ra
Lính khiêng trên võng, tiếng la vang trời
Người già yếu ai ơi khỏi xử
Cha nguyện cầu, xin cứ thương ban
Hồng ân Chúa đổ tuôn tràn
Cho con lãnh nhận, hồn an xác lìa
Tại Bảy Mẫu, mộ bia các Ðấng
Ðã hy sinh nuôi nấng đức tin
Dắt dìu con, một hướng nhìn
Về nơi Thiên Quốc, Trái Tim nhân lành
Pháp trường đã trổi nhanh chiêng trống
Cha Duệ quỳ, như giống cầu xin
Lý hình đao phủ hướng nhìn
Múa gươm vung chém, ngừng tim bay đầu
Phúc tử đạo nguyện cầu Mậu Tuất (1838)
Tuổi già nua ngài đợi hiến dâng
Roma Canh Tý (1900) vinh thăng
Suy tôn Á thánh vĩnh hằng Nước Cha
Các giáo hữu thấm nhoà máu thánh
Thi hài cha xác thánh chôn ngay
Pháp trường Bảy Mẫu nơi đây
Lục Thuỷ cải táng sau này tôn vinh
Lời bất hủ: Toán linh đi ngang qua nhà cha, cha nói: "Các
chú tìm đạo trưởng hả, tôi là đạo trưởng đây". Cha bị bắt đem
nộp cho tổng đốc Trịnh Quang Khanh. Quan đòi cha bước qua Thánh
Giá, cha Duệ đáp: "Xin quan lớn đừng bảo tôi làm thế, dù thế nào
tôi chẳng thể vâng lời quan". Nhà tù mưa giột, lính dời cha đến
chỗ
khác, cha nói: "Cứ để tôi ở chỗ ướt này cũng được, không can
chi. Tôi chỉ lo những sự đời sau và ước ao đổ máu vì đạo Chúa
Kitô thôi". |