Người tử
hùng bá đao
Trong 117 thánh tử
đạo Việt Nam, cuộc tử đạo của thánh Marchand Du mang màu sắc bi
tráng nhất. Với gần ba tháng trong chiếc cũi chật hẹp, và những
cuộc tra tấn chết đi sống lại, ngài là vị duy nhất bị án bá đao,
nghĩa là bị cắt xẻo 100 nhát trước khi bị chặt ra làm bốn phần,
còn thủ cấp bị nghiền nát đổ xuống biển.
Tuy nhiên, chúng
ta không nên quá nhấn mạnh đến những đau thương trong cuộc tử
nạn, mà quên mất chứng từ đời sống của thánh nhân : sự nhiệt tâm
truyền giáo, lòng yêu mến các tín hữu và chí cương quyết chỉ
phục vụ Tin Mừng.
Mong ước tuổi xuân
Đầu thế kỷ XIX,
tại làng Passavant, nước Pháp, nhiều người đã phải ngạc nhiên
khi thấy hành vi của một cậu bé chưa đầy mười tuổi : sau giờ
học, cậu rủ các bạn hữu về nhà, khiêng bàn, trải khăn làm bàn
thờ, trang hoàng hoa nến, đặt cây Thánh Giá, rồi bắt trước các
cử điệu như khi linh mục dâng lễ Missa cho các bạn xem. Đó là
cậu bé Giuse Marchand.
Mở mắt chào đời
ngày 17.8.1803 tại làng Passavant, tỉnh Doubs. Ngay từ niên
thiếu, dân làng đã thấy rõ ước muốn trở thành linh mục của cậu.
Sau khi rước lễ lần đầu, cậu xin cha mẹ đi tu, nhưng vì gia đình
làm nghề nông túng nghèo, thiếu người lao động, nên cha mẹ cậu
tìm cách trì hoãn cho cậu đổi ý. Tuy nhiên, Marchand đã không
thay đổi ý định, cậu kiên quyết hoàn thành mộng ước tuổi xuân,
và cuối cùng bên người đổi ý là song thân của cậu. Năm 18 tuổi,
Marchand gia nhập chủng viện giáo phận Besacon. Năm 1828, sau
khi lãnh chức phó tế, thày Marchand xin chuyển sang Hội Thừa Sai
Paris. Độ nửa năm, thày được thụ phong linh mục (04.4.1829), sau
đó một tháng thì đáp tàu đi Macao đến Việt Nam giảng đạo.
Nhà du thuyết nhiệt tâm
Tháng 3.1830, cha
Marchand vào tới Việt Nam, và lấy tên mới là Du. Sau một thời
gian học tiếng và phong tục Việt Nam tại Lái Thiêu, cha du được
cử tới Pnom-Pênh để coi sóc các tín hữu Việt Nam tại đây (khi đó
đất Campuchia thuộc giáo phận Đàng Trong). Thế rồi ít lâu, cha
được gọi về Lái Thiêu coi sóc các chủng sinh, đồng thời phụ
trách 25 giáo họ, với khoảng 7000 tín hữu thuộc tỉnh Bình Thuận.
Trong thư đề ngày
13.6.1832 gởi về quê nhà cha viết : "… 25 giáo họ cách nhau rất
xa. Muốn chu toàn bổn phận, con không thể bỏ phí một giây nào…
từ năm giờ sáng đến chín giờ tối, nhiều ngày chẳng có lúc nào
rảnh rỗi cả. Con chỉ có thể dành chút thời giờ chu toàn việc đạo
đức riêng lo cho phần rỗi mình, còn thì luôn luôn phải làm việc
để thánh hóa kẻ khác… Con chỉ tiếc một điều là không thể tận tụy
hơn được nữa, để vừa giúp giáo dân, vừa giúp lương dân, lại cón
phải bắt buộc di chuyển bằng thuyền, nên không thể đi mọi nơi,
hầu dẫn về đoàn chiên Chúa Giêsu những con chiên bất hạnh lạc
đường…".
Cha Du mới đi hết
25 giáo họ này được hai lần thì ngày 16.1.1833 vua Minh Mạng ra
chiếu chỉ lùng bắt các giáo sĩ Âu Châu. Đức cha Tabert Từ, cha
Cuénot Thể và các thừa sai dẫn theo các chủng sinh trốn qua Thái
Lan. Chỉ mình cha Du nhất nhất quyết ở lại, ẩn tránh ở miền Lục
Tỉnh, giúp các họ Cái Nhum, Cái Mơn, Bãi Xan, Giồng Rùm, và trú
ngụ tại Mặc Bắc, Vĩnh Long.
Tôi chỉ biết một điều là giảng đạo
Lê văn Khôi thực
ra có họ Nguyễn, từng nổi loạn ở Cao Bằng, sau ra đầu thú, được
Tả quân Lê Văn Duyệt nhận làm con nuôi, mới đổi qua họ Lê. Lợi
dụng việc vua Minh Mạng xử tệ với Tả quân (khi đó đã thất lộc
cho đánh trên mộ 100 trượng), Lê văn Khôi liền lấy cớ phò cháu
đích tôn của vua Gia Long, con hoàng tử Cảnh tên là Đản. Việc
bại lộ, khôi bị bắt. Đến 05.7.1833, ông với khoảng 30 bạn tù
vượt ngục, giết một vài quan, thả các tù nhân khác, rồi chiêu
binh chiếm Phiên An (sài Gòn) và miền Lục Tỉnh.
Lê Văn khôi tuy
ngoại đạo, ngưng đã khôn khéo hứa hẹn bãi bỏ các lệnh cấm đạo
của vua Minh Mạng, nên một số tín hữu theo ông. Để có thể quy tụ
nhiều người Công Giáo hơn ủng hộ mình, Lê Văn Khôi cho mời cha
Du về Sài Gòn, cha từ chối. sau vì một số tín hữu Chợ Quán nói :
"Nếu cha không chịu về, sợ quan giận mà chém hết bổn đạo trong
thành. Ở đó bổn đạo cũng đông lắm…". Thế là cha Du đành lòng về
xứ Chợ Quán ở nhà thờ cha Phước, nhưng rất ít khi ở nhà, cha lo
đi thăm các gia đình tín hữu. Lê văn Khôi nhiều lần mời, cha vẫn
không chịu vào trong thành.
Khi quân triều
đình vây thành Gia Định, Khôi cho quan đem voi ra Chợ Quán bắt
ép cha Du phải vào thành. Cha Phước và nhiều tín hữu cũng theo
vô. Trong thành, tướng Khôi xử đãi cha khá rộng rãi, có nhà
riêng để dâng lễ hàng ngày, các tín hữu có thể tụ tập ở đó để
đọc kinh, nghe giảng và lãnh các bí tích. Khôi có ý mua chuộc để
cha tiếp sức, nhưng trước sau cha chỉ nói : "Tôi chỉ biết việc
đạo, còn nghề giặc giã binh lính, tôi không rành".
Một hôm cha được
mời vào dinh nguyên soái. Một xấp thư kêu gọi dân chúng và tín
hữu nổi dậy chống nhà vua để trên bàn. Tướng khôi xin cha ký
tên. Vị linh mục thấy rõ đã đến lúc tỏ rõ lập trường của mình,
liền đứng dậy cầm xấp thư, ném tất cả vào lửa. Dầu vậy quân của
Khôi không dám làm gì cha, vì sợ các tín hữu trong đội quân sẽ
chống lại.
Sau hơn hai năm
vây hãm, ngày 08.9.1835 quân chiều đình đã chiếm lại được thành
Phiên An. Cha Du vừa cử hành thánh lễ xong thì bị bắt, bị đánh
đập và bị nhốt vào cũi nhỏ, dài một mét (1m), rộng bảy tấc
(0.7m), cao tám tấc (0.8). Đó sẽ là "nhà ở" của cha cho đến ngày
xử tử, căn nhà mà chủ nhân chỉ có thể ngồi khom lưng suốt ngày
đêm.
Số người bị tàn
sát lên đến 1994, trong đó có 66 tín hữu (chỉ có 20 nam, còn bao
nhiêu là phụ nữ và trẻ em), cha Phước cũng bị xử lăng trì (chặt
chân tay, rồi chẻ thân hình làm bốn). Cha Du được đưa ra xét xử
:
- Giặc đã đem thày
vào thành, thày không làm gì để chúng giúp chúng sao?
- Tôi chỉ lo việc
giảng đạo mà thôi…
- Giảng đạo là
giống gì ?
- Là đọc kinh, làm
lễ và dạy dỗ bổn đạo.
- Thày có biết làm
thuốc mê để dỗ lòng ngụy cho nó theo không?
- Tôi chỉ biết có
một việc là giảng đạo mà thôi.
Sau hai cuộc tra
vấn nữa, cha Du bị giam trong cũi và bị áp giải về kinh đô cùng
với tổng Trắm, đồ Hoành bốn Bang, phó Nhã và con trai Lê văn
Khôi là Lê văn Viên mới bảy tuổi. Đoàn người vế tới Phú Xuân
ngày 15.10, cha du bị gaim trong ngục Võ Lâm gần tòa Tam Pháp.
Đàng sau bản án phản loạn.
Hôm sau 16.10, cha
Du bị đưa ra tòa Tam Pháp. Các quan cố ép cha nhận tội giúp Khôi
làm loạn. Nhưng cha khẳng định : "Tôi chỉ lo cầu nguyện cùng
Chúa và làm lễ thôi". Quan hạch hỏi: - Có phải người gửi thư vô
Xiêm, cùng gửi thư cho quân Gia Tô trong Đồng Nai, biểu nó đến
giúp ngụy không ?
Cha Du trả lời :
"Ông Khôi có yêu cầu tôi viết thư, song tôi không chịu viết, một
nói cho ông ấy hay : Đạo tôi cấm làm như vậy và tôi thà chết
chẳng thà làm theo lời ông ấy. Dầu thế ông Khôi còn đêm mấy bức
thư ra, biểu tôi ký tên vào, thì tôi lấy mấy cái thư ấy mà đốt
đi trước mặt ông ấy".
Để bắt cha nhận
tội, tối hôm sau, các quan dùng đủ cực hình kìm kẹp : Họ cho
nung đỏ kìm sắt và cho kẹp hai lần vào hai đùi cha, rồi giữ
nguyên cho tới khi kìm nguội. Một lần như vậy mùi thịt cháy xông
lên khét lẹt, chính quân lính cũng phải quay mặt đi. Vị anh hùng
đức tin hai lần ngất xỉu, nhưng vẫn giữ nguyên lời khai cũ. Họ
đành nhốt cha vào cũi lại, rồi đưa về ngục.
Để tạo chứng gian
buộc tội cha, các quan dỗ con trai Lê văn Khôi, hứa trả tự do
nếu khai rằng "Ông thày Tây" giúp cha em khởi nghĩa. Nhưng cậu
bé bảy tuổi ấy không biết nói dối, cậu nói cha Du hoàn toàn vô
can, dầu cha cậu có hứa hẹn, khuyên dụ nhiều phen.
Cuối cùng, các
quan đành xoay qua "tội giảng đạo". Họ nhắc đến chiếu chỉ nhà
vua, và hứa ân xá nếu cha bước qua Thánh Giá. Cha Du cám ơn quan
và tuyên bố sẵn sàng chịu cực hình, chứ không thể thất trung với
Chúa. họ lại tiếp tục nhốt cha trong cũi. Sáu tuần lễ ở kinh đô
đã trôi qua như thế. Các tín hữu ghé vào thăm và tiếp tế cho
cha, đều thuật lại rằng : "Cha Du vẫn luôn vui vẻ và thường cầm
cuốn sách nhỏ để đọc đêm ngày".
Thừa lệnh vua Minh
Mạng, bản án cuối cùng được viết như sau : "Tây dương ma Sang
kêu là danh Du, Gia Tô đạo trưởng, phò ngụy Khôi, nhận tội viết
thư xin Hồng Mao (nước Anh) và Xiêm La (Thái Lan) sang giúp ngụy
thần. Lệnh xử bá đao".
Chết vì lý do tôn giáo
Sáng sớm
30.11.1835, bảy phát súng thần công nổ vang kêu gọi mọi người
đến tham dự cuộc xử án. Cha Du, ba vị tướng của Khôi và em Lê
Văn Viên được đưa ra khỏi cũi (phó Nhã đã chết trong ngục), mọi
người chỉ được đóng khố, rồi dẫn đến cửa Ngọ Môn trình diện và
phục lạy vua năm lạy. Vua Minh Mạng tỏ vẻ giận dữ ném chiếc cờ
hiệu xuống đất. Đó là dấu không ân xá lần cuối, năm tội nhân
được đưa ra pháp trường. Riêng cha Du, theo mật lệnh, được đưa
vào tòa Tam Pháp tra khảo một lần nữa. Đọc nội dung cuộc tra
khảo này, chúng ta thấy quan quân không đá động gì đến lý do
chính trị cả !
Năm người lính cầm
năm kìm nung đỏ kẹp vào bắp vế cha. phía sau là năm người lính
khác cầm roi để năm lý hình không được phép nương tay. Ba lần
kìm kẹp, thân thể cha Du có đủ 15 vết bỏng. Song song với cuộc
tra tấn là mẫu đối thoại sau :
- Tại sao Gia Tô
móc mắt mấy người gần chết?
- Không có, không
bao giờ tôi thấy điều đó.
- Tại sao mấy
người kết hôn lại phải đến các thày đạo trước bàn thờ ?
- Họ đến để thày
cả chúc phúc và chứng nhận trước mặt các tín hữu ở đó.
- Khi làm yến tiệc
trong nhà thờ, bay làm những sự quái gở lắm phải không ?
- Không, chẳng có
những điều quái gở.
- Vậy sao có thứ
bánh dùng làm bùa mê thuốc lú để phát cho những đứa đã xưng tội
mà làm nó mê đạo đến thế?
Cha Du kiệt sức
không thể trả lời được nữa. Lính dọn cho tử tội bữa ăn sau cùng,
nhưng cha không dùng chi cả, chỉ lo cầu nguyện với Chúa. Sau đó,
lính đưa các tử tội đến pháp trường tại họ Thợ Đúc bên sông
Hương, cách kinh thành một dặm đường.
Chết như một tội nhân
Năm cây cọc đã cắm
sẵn. Lính trói năm tử tội, cha Du bị trói vào cây cọc thứ hai.
Ngài bị án "Phản loạn" và sẽ chết giữa những người phản loạn.
Dân chúng bị đuổi lùi ra xa 30 thước. Cứ mỗi tử tội lại có ba lý
hình, một cầm kìm, một cầm đao, còn một lo đếm số cho đủ 100 lát
cắt. Trước đó, lính đã nhét vào miệng tội nhân và cột chặt, để
không ai có thể kêu la được nữa.
Sau một hồi trống,
lý hình cắt lớp da trên trán cha Du lật xuống che mặt, rồi cắt
từng mảnh hai bên ngực, sau lưng, tay chân. Quá đau đớn, vị
chứng nhân giẫy giụa, quằn quại, ngước mắt lên trời cao rồi gục
đầu xuống nhắm mắt lìa đời. Tiếp theo quân lính cắt đầu của
ngài, cởi dây, bổ thân mình làm bốn, và ném xuống biển chung với
bốn tử tội kia. Còn thủ cấp cha, được đưa đi bêu ở nhiều nơi,
rồi được trả về kinh đô, bị bỏ vào cối giã nát và cho rắc xuống
biển.
Ngày 30.11.1835
cũng là ngày kính thánh Anrê. Các thánh lễ hôm đó đều đọc lại
đoạn sách Isaia (Is. 52,7): "Đẹp thay bước chân người rao giảng
Tin Mừng" như lời chúc tụng vị thừa sai đã hoàn tất sứ mạng tông
đồ của mình. Giáo Hội đã rất thận trọng khi nghiên cứu hồ sơ cha
Marchand Du, căn cứ vào các buổi tra khảo, nhất là cuộc thẩm vấn
cuối cùng, Giáo Hội khẳng định ngài đã hiến mạng sống vì đức
tin. (2)
Đức Lêo XIII đã
suy tôn linh mục Marchand Du lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900.
Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển
thánh.
Nguồn từ tu viện
Đa Minh
Trường thi tử Đạo.
Marchand Du thừa
sai linh mục
Sinh Quý Hợi (1803) quê thực Paris
Từ nhỏ đã tỏ hướng đi
Thích làm linh mục cậu thì tỏ ra
Cùng các bạn bày ra dâng lễ
Giống như cha chủ tế hàng ngày
Thấy người lớn cậu dẹp ngay
Trò chơi của cậu những ngày còn thơ
Ðến khi lớn giấc mơ của cậu
Xin vào dòng học đậu làm cha
Kẹt vì lúc đó trong nhà
Bạc tiền túng thiếu cùng là nhân công
Cha mẹ cậu trước không đồng ý
Tưởng một hai thối chí cậu chăng
Ai ngờ ngày một gia tăng
Cuối cùng cha mẹ phải bằng lòng thôi
Vào Chủng viện tuổi đời mười tám
Mười năm trời theo bám chủng sinh
Phó tế lãnh chức quang vinh
Thầy xin sang nhập gia đình thừa sai
Nửa năm sau chức ngài linh mục
Xin Bề Trên tiếp tục hiến thân
Việt Nam truyền giáo đang cần
Cha xin tình nguyện lãnh phần ưu tiên
Ðường đi lại tàu thuyền cách trở
Chặng đi đầu tạm ở Macao
Việt Nam đợi dịp đi vào
Mùa xuân con cọp (1830) đẹp sao tới bờ
Việc cần nhất bây giờ học tiếng
Tại Lái Thiêu vốn liếng bổ sung
Ðọc thông nói thạo đủ dùng
Ðặt tên tiếng Việt kêu bằng cha Du
Ðến Campuchia mùa thu năm ấy
Ðể thăm quan và thấy giáo dân
Lái Thiêu Chủng viện đang cần
Xin cha về nhận cái phần giảng sư
Coi xứ đạo cũng từ ngày đó
Trong cả vùng cũng có hai lăm (25 xứ)
Hàng tuần cha phải đi thăm
Ban phép hoà giải hằng trăm tín đồ
Vua Minh Mạng lệnh vô lùng bắt
Giáo sĩ Âu cấm ngặt răn đe
Rủ nhau đi bộ đi ghe
Chạy sang nước Thái (Lan) chở che tạm thời
Chỉ cha Du ngài đòi ở lại
Coi giáo dân chẳng ngại hiểm nguy
Miền Nam trong lúc ấy thì
(Lê) Văn Khôi phản loạn muốn đi cầu ngài (cha Du)
Ý ông (Khôi) muốn góp tài chung sức
Phần giảng rao hết mực tự do
Ðạo đời hoà hợp khỏi lo
Nay đây mai đó trốn cho tội tình
Cha Du vẫn làm thinh không chịu
Ngài biết rằng chính hiệu của tôi
Ðến đây giảng đạo Chúa Trời
Ngoài ra không biết việc đời là chi
Lê Văn Khôi gặp khi túng thế
Ðem voi ra bồng bế cha vào
Tâm thư ngài được ban trao
Ðọc xong xin hãy ký vào giùm tôi
Cha Du đứng nghỉ ngơi một lúc
Rồi đem thư tiếp tục xé luôn
Ông Khôi lúc đó tuy buồn
Nhưng không phản ứng về luôn sảnh đường
Hơn hai năm bức tường vây hãm
Quân nhà vua can đảm phá thành
Nguỵ quân mấy bữa tan tành
Văn Khôi bị bắt đồng hành cha Du
Ðem về kinh căm thù kết tội
Buộc cho ngài kết nối nguỵ quân
Gởi thư cầu viện xa gần
Cùng Khôi cấu kết mật thân chống triều
Cha Du nói một điều giảng đạo
Kẹp kìm tra cố tạo tội thêm
Cuối cùng bản án như nêm
Tây dương tả đạo có kèm tên Du
Phò Khôi nguỵ hận thù đáng chết
Xử bá đao chưa hết tội mi
Cha Du chẳng nói năng gì
Ất Mùi (1835) tử đạo hồn đi lên Trời
Trong sử sách ấy thời ghi chép
Mình cha Du chịu chết bá đao
Canh Tý (1900) Toà Thánh ban trao
Suy tôn Chân phước bước vào Thiên cung
Lời bất hủ: Tướng Lê Văn Khôi (nghịch với Triều Nguyễn)
đã ép cha Du phải vào thành. Tướng Khôi có ý mua chuộc cha để
cha tiếp sức, nhưng trước sau cha chỉ nói: "Tôi chỉ biết việc
đạo, còn nghề giặc giã binh lính, tôi không rành". Cha Du bị bắt
và dẫn giải về triều đình Huế, các quan hỏi cung: "Có phải người
gửi thư vô Xiêm, cùng gửi thư cho quân Giatô ở Ðồng Nai, biểu nó
đến giúp nguỵ không?". Cha Du đáp: "Ông Khôi có biểu tôi viết
thư song tôi không chịu viết, một nói cho ông ấy hay: đạo tôi
cấm làm như vậy, và tôi thà chết chẳng thà làm theo lời ông ấy.
Dầu thế ông Khôi còn đem mấy bức thư ra, biểu tôi ký tên vào,
thì tôi lấy mấy cái thư ấy, mà đốt đi trước mặt ông ấy". Bản án
thừa lệnh vua Minh Mạng viết như sau: "Tây Dương Ma Sang kêu là
danh Du, Giatô đạo trưởng, phò nguỵ Khôi, nhận tội có viết thư
sang Hồng Mao (tức nước Anh) và Xiêm La (Thái Lan) sang giúp
nguỵ thần, lệnh xử bá đao". Cha Du còn tra hỏi lần chót rồi mới
xử. Hỏi: "Khi làm yến tiệc trong nhà thờ, bay làm những sự quái
gở lắm phải không?". Ðáp: "Không, chẳng hề có những điều quái
gở". "Vậy sao có thứ bánh làm bùa mê thuốc lú, để phát cho những
đứa đã xưng tội mà làm nó mê đạo đến thế?". Cha Du kiệt sức
không trả lời được nữa. |