Các lệnh
cấm đạo năm 1750, 1754, và 1765
Cuối năm 1748,
Trịnh Doanh đi thăm các trại lính thấy khẩu đại bác có chữ Âu
Châu muốn biết xem là chữ gì liền ra lệnh tìm người Âu Châu. Cha
Paleceuk Dòng Tên được đưa đến để giải thích các chữ viết, đồng
thời khuyến khích chúa Trịnh tin dùng người Âu Châu làm cố vấn.
Ngay lúc đó Trịnh Doanh ra lệnh phóng thích 7 người Công Giáo
đang bị giam giữ ở Kinh Ðô và xin Cha Paleceuk tìm các chuyên
viên toán học và thiên văn. Bề trên Dòng Tên ở Macao sai Cha
Simonelli và 6 vị thừa sai với đầy đử dụng cụ thiên văn và toán
học đến. Trong thời gian này giáo dân bắt đầu tổ chức lễ lạy
công khai, nhiều quan trở lại đạo và lương dân thân thiện với
Công Giáo như trước.
Nhưng không biết
vì lẽ gì Trịnh Doanh lại đổi ý, ngày 3-7-1750 lập lại các lệnh
cấm đạo cũ. Năm 1751 khi đòan thừa sai từ Macao đến để làm việc
theo lời yêu cầu đã bị từ chối không cho phép xuống đất. Sau cha
Dòng Tên đã lẻn xuống được, còn cha trưởng đoàn phải trở về
Macao.
Ngày 26-10-1754,
Trịnh Doanh công bố một lệnh cấm đạo mới. Nội dung như sau: "Hội
đồng các quan truyền lệnh cho các huyện như sau: Ðạo 'Hoa Lang'
lầm lạc nghịch lại lý trí, mê hoặc lòng dân và còn truyền bá lan
rộng đạo lý sai lầm. Các năm trước hội đồng đã gửi các sắc lệnh
ngăn cấm để chặn sự xâm nhập của đạo này, nhưng vẫn còn có người
tiếp tục làm hư hại người khác. Vì vậy quan trấn các phủ huyện
phải bí mật điều tra. Nếu bắt được đạo trưởng thì phải giải họ
về kinh, các tín hữu thì phải trừng phạt, hoặc lưu đầy, hoặc tạp
dịch trong các chuồng thú vật, hoặc đánh đòn. Nếu các quan chểnh
mảng nhiệm vụ này sẽ bị trừng phát, ai nhiệt thành sẽ được trọng
thưởng".
Lệnh trên được bí
mật gửi cho các quan, nhưng khi các vị thừa sai biết được đã ra
lệnh ngưng các buổi hội họp, sửa đổi nhà thờ thành nhà ở, treo
cờ, dựng cây nêu... Còn các vị thừa sai thì tạm thời trốn tránh.
Kết quả Cha Ðóa bị bắt với 4 người nhà. Cha Cai và 4 người nhà
khác cũng bị bắt tại Bố Chính, các chủng sinh tại Thanh Hóa một
số bị bắt. Ðịa phận Ðông Ký có một thầy giảng bị bắt tại Xứ Bắc
và Cha Alonso dòng Ða Minh cũng bị bắt.
Ngày 15-9-1765,
Trịnh Doanh kết án một nhà sư và ra lệnh giải tán một số chùa
chiền, nhưng vì sợ dân chúng phản loạn cho là bắt đạo Phật nên
Trịnh Doanh ra lệnh cấm luôn cả đạo Công Giáo. Các vị thừa sai
chỉ nhắc đến những vụ bắt bớ do quan lại muốn làm tiền, không có
ghi lại sắc lệnh. Kết quả là Cha Orta người Ý thuộc Dòng Tên và
Cha Ðóa Dòng Ða Minh bị bắt tại Thanh Hóa. Ngoài ra Cha Gioan
Hiên và nhiều cha khác đi làm lễ Phục Sinh cũng bị bắt. Khi
Trịnh Doanh chết cuộc bắt bớ mới tạm yên.
Linh Mục
Mateo Alonso Liciana Ðậu,
Cha Mateo Liciana
sinh ngày 26-11-1702 tại Nave del Rey và nhập tu viện Ða Minh S.
Croce tại Segovia. Năm 1723, ngài khấn trọn đời rồi tiếp tục học
thần học và tu đức. Về tuổi trẻ của ngài, chúng ta không được
biết gì nhiều. Năm 1729, tỉnh dòng Phi Luật Tân tuyển mộ các vị
thừa sai để làm việc tại đây. Cha Mateo xin ghi tên, nhưng sau
lại rút lui. Ngài cảm thấy xấu hổ nên xin làm linh mục và phục
vụ tại một tỉnh dòng khác. Một cơn bệnh làm cho ngài suy nghĩ
nhiều đến việc từ chối đi truyền giáo. Dịp may lại đến để cha có
thể chuộc lại lỗi cũ, ngày 4-7-1729 cha và hai thầy khác nhập
đoàn 27 người thừa sai đi Phi Luật Tân.
Ðoàn truyền giáo
tới Manila tháng 10-2730. Cha Mateo được chỉ định đi Bắc Kỳ.
Ngày 13-2-1731, cha khởi hành đi với hai tu sĩ khác bằng tầu
buôn Hòa Lan. Ngày 18-1-1732, cha tới Bắc Kỳ và được đưa tới nhà
Ðức Chúa Trời ở Trung Linh để học tiếng Việt trong năm tháng.
Tại đây cha được đặt tên là Ðậu. Trong thời kỳ này giáo dân tại
đây đang bị bách hại do sư Tình cầm đầu. Cha Ðậu phải trốn tránh
nay đây mai đó, 7 tháng lưu lạc.
Từ năm 1733 cha
được chỉ định coi Nam Thượng, rồi thêm ba huyện là Giao Thủy, Vụ
Thiên và Chấn Ðinh, sau đó lại thêm Phú Thái và Nam Chân. Tại
đây đang có loạn nổi lên làm cuộc rao giảng đạo phải lén lút,
khi đi bộ, khi đi thuyền như các dân chài. Hồi ấy các cha thường
đi làm phúc các họ một năm hai lần. Dù đang cơn bắt bớ, Cha Ðậu
rất nhiệt thành với việc tông đồ. Người chứng thứ mười hai đã
làm chứng về lòng nhiệt thành bất kể gian nguy của ngài rằng có
một lần họ khuyên ngài đừng đến một làng nguy hiểm thì ngài
trách mắng và khuyên bảo họ như sau: "Nếu vì sợ bị bắt mà không
đi làm phúc cho bổn đạo thì cha đến xứ này để làm gì? Nếu chúng
con sợ vất vả thì còn làm được cái gì nữa? Nếu sợ chết nữa thì
theo cha làm chi. Cha đi một mình vậy".
Suốt trong 10 năm
làm việc tông đồ cha trốn thoát khỏi tay kẻ thù đến bốn năm lần.
Một lần khác, hay tin ở làng Kẻ Bái có một người chối đạo, tên
là Chinh Nam, và trở thành kẻ thù của người Công Giáo, Cha Ðậu
mạnh mẽ đến gặp ông ta và dùng lời lẽ khôn ngoan đã khuyên được
ông ta trở về và làm cho giáo dân ở đó được an tâm. Ngoài ra tại
Bắc Kỳ lúc đó có nhiều thiên tai và dịch tễ, Cha Ðậu tỏ ra nhiệt
thành bác ái không sợ bị bệnh tật nữa. Người chứng thứ 34 nói về
lòng bác ái của cha như sau: "Một năm tại làng tôi có dịch tễ,
Cha Ðậu tới cả ngày cả đêm không kể thời tiết xấu. Dù bị bệnh,
ngài phó thác nơi Chúa, vẫn tiếp tục đi săn sóc các bệnh nhân
khác. Cha Ðậu còn sốt sắng khuyên bảo những người rượu chè và cờ
bạc. Ngài có tài khuyến dụ họ bỏ được các thói xấu đó".
Tóm lại, trong 10
năm cha vừa trau dồi nhân đức bằng việc cầu nguyện hãm mình, vừa
sốt sắng làm việc tông đồ và xả thân cứu giúp người nghèo khó.
Ngày 29-11-1743,
một giáo dân tên là Ðào Tất Ðạt đã đi tố giác nơi cha ở. Sáng
sớm đang khi Cha Ðậu làm lễ thì lính nhà quan ùa đến Lục Thủy
tìm bắt ngài. Cha Ðậu vội cầm mình thánh trốn vào trong thì bị
tên lính túm tóc đánh vào hông làm ngài té xuống đất. Tên này
còn đá lên đầu cha làm máu chảy ra. Mấy tên lính khác lột áo
ngài và đem chia nhau. Ðồng thời họ cũng bắt luôn Thầy Ignatiô
Nguyễn Văn Quí, còn cha phó Giuse Ðinh thì chạy trốn kịp, và hai
thầy khác là Sien và Dan cũng cởi trói trốn ra được.
Cha Ðậu và Thầy
Ignatiô Quí bị trói và dẫn đến nhà quan phủ Lê Phong tại Vị
Hoàng. Tới nơi vào nửa đêm, quan phủ chỉ hỏi tên tuổi rồi cho
lính xích chân tay và cấm không cho ai được đến gần. Ít ngày
sau, quan phủ cho giáo dân hay là sẽ thả cha nếu họ chịu nộp một
số tiền lớn. Giáo dân gom được 90 lạng bạc giao cho quan. Quan
vui vẻ nhận nhưng để mặc giáo dân chờ đợi trong thất vọng. Có
một đêm, một người lính Công Giáo đến đòi bẻ xích để cha trốn
đi, nhưng cha đã không chấp nhận một sự tự do như thế vì nguy
hiểm cho người lính. Sau cùng họ giải cha đi Hà Nội, cha cứ
tưởng giờ tử đạo đã đến nên dọn mình suốt cả đêm. Cha bị dẫn đi
trong thành phố như những tên tội phạm, trẻ con và dân chúng hai
bên đường chế diễu.
Ngày 18-12-1743,
cha được giao cho quan Ðề Lĩnh, con rể của chúa Trịnh, đang trị
nhậm Kẻ Chợ. Ban đêm cả hai vợ chồng tới tra vấn và xem cho biết
mặt mũi người Âu Châu ra sao. Khi quan hỏi tên tuổi, thời gian
cha ở Bắc Việt, đến đây làm gì và giảng dậy những gì, Cha Ðậu đã
thưa lại tên ngài là Mateo, đến Bắc Việt được 12 năm và là thầy
cả của đạo thánh Ðức Chúa Trời, đạo chân thật, đến xứ này để
giảng về Chúa chân thật và về ba bậc cha, đó là Cha Trời Ðất,
cha của quốc gia, và cha gia đình. Sau đó ngài đọc cho quan nghe
10 điều răn.
Quan Ðề Lĩnh lại
hỏi tại sao có lệnh vua quan cấm đạo mà còn đến? Cha Ðậu trả lời
là chính vì có lệnh cấm mới không dám xuất hiện công khai, phải
lén lút gặp gỡ giáo dân ban đêm để có thể giảng đạo và khuyên
nhủ người ta theo con đường thiện hảo. Dân chúng nghe tin có
người Âu Châu trong tù cũng tuốn đến xem. Dầu vậy cha vẫn bị đối
xử như một người trộm cướp có sức mạnh chịu mọi sự cực hình tra
tấn. Bốn tháng trời bị giam giữ trong nhà tù của quan, Cha Ðậu
không ngừng rao giảng đạo cho những người đến thăm. Thấy cha
giảng vất vả, lính canh tháo gông để cha dễ dàng nói về đạo hơn.
Cha bị tra vấn cả
thảy 7 lần, mãi tới ngày 3-4-1744 cha mới được đưa ra tòa lần
đầu tiên cùng với các đồ đạo như thánh giá, ảnh đạo và sách
nguyện mà chúng đã tịch thu. Một trong ba quan án trỏ vào cây
thánh giá hỏi ngài: "Cái gì đây?"
Cha Ðậu trả lời:
"Ðó là Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã xuống trần làm người
và chịu khổ để đền tội cho nhân loại vì tổ phụ con người đã bất
tuân lệnh Chúa Trời đất, và vì không ai chuộc được lỗi tầy trời
ấy nên Con Chúa Trời đã làm người chịu chết chuộc tội và có thể
làm cho con người được lên trời".
Sau đó quan còn
hỏi những bức ảnh Ðức Mẹ, Thánh Giuse, v.v... và nghe đọc sách
nguyện. Quan lại hỏi về luật trong đạo. Cha Ðậu trả lời: "Tôi có
nhiều sách in chữ Hán do các tiến sĩ ở Bắc Kinh, cũng như mấy
cuốn sách in bằng chữ An Nam nữa, mà nếu quan có đọc thì chắc sẽ
không bắt tôi giam tù như thế này".
Sau đó quan hỏi về
quê quán và đời sống bên nước Tây Ban Nha như có nhà cửa, tòa án
không, người đàn bà có theo đạo như vậy không, v.v....
Ngày 12-4 cha lại
bị đem ra trước tòa và quan án hỏi: "Ông có dám đánh cây thánh
giá không?"
- "Bẩm quan tòa,
tôi là đạo trưởng đến đây để rao giảng luật đạo đức chân thật
của Chúa, bởi vậy tôi không khi nào chối đạo và đánh vào ảnh
tượng là một trọng tội. Luật mà tôi giảng dậy là chân thật và
công bằng, giúp người ta thoát bỏ con đường tội lỗi để trau dồi
đức hạnh trong việc tôn kính ba bậc cha".
- "Ba bậc cha là
những ai?"
- "Trước hết là
Thiên Chúa cao cả, Cha của mọi thần thánh, rồi mỗi nước có vua
và các quan, sau cùng là cha mẹ và các tổ tiên. Con người đã
nhận bao nhiêu ân huệ từ ba bậc cha này".
Cha Ðậu được đưa
ra khỏi tòa và họ bắt đầu tra vấn Thầy Ignatio Quí trong hai
tiếng đồng hồ. Sau đó lại gọi Cha Ðậu trở lại và hỏi có biết
Thầy Hoi, Thầy Xa, Thầy Thiên, và Thầy Kiên không, đồng thời đe
dọa là không được nói dối. Cha Ðậu trả lời: - "Không biết. Tôi
chỉ biết tên Ignasio, Luca, Giovani và Giuse".
- "Quê quán của
mấy người này ở đâu?"
- "Tôi không biết."
Họ liền bàn luận
với nhau về phép Rửa Tội. Cha Ðậu liền nhân cơ hội nói với họ
đầy đủ về các bí tích: "Chúa chúng tôi là Ðức Giêsu Kitô đã lập
ra 7 nghi thức gọi là bí tích, phép Rửa Tội là một trong 7 bí
tích đó. Ðức Kitô đã truyền cho các môn đệ phải đi khắp thế giới
để làm phép Rửa Tội và giảng luật cứu rỗi".
- "Trong 13 năm
qua ông ở những đâu?"
- "Tôi đi nhiều nơi khác nhau, chỉ có tỉnh Nam Ðịnh là ít mà
thôi".
- "Có phải là ban đêm đàn ông đàn bà ngủ chung với nhau không?"
- "Ðây là một lời vu khống tầy trời nhắm làm hại người Công Giáo
chúng tôi".
- "Ông có phù phép gì mà làm cho người ta tin thế? Ông có vợ
không? Chịu vất vả như thế này ông được thưởng gì chứ?"
- "Tôi đã dâng hiến trọn đời cho Chúa và giảng dậy người ta chỉ
làm điều lành chứ không được làm những điều ám hại, và cuối cùng
tôi chỉ mong phần thưởng trên nước trời".
- "Ai đã dẫn ông tới Bắc Kỳ? Ông sống bằng cách nào?"
- "Người Trung Hoa đã dẫn tôi vào. Tôi chỉ sống bằng của bố thí
của giáo dân. Trong thời giặc giã thì tôi ở Nam Chan".
Sau đó các quan
soạn ra một bản án như sau: "Tuân theo các lệnh của chúa, chúng
hạ thần đã xem xét bản tâu trình của đại quan Lê Phương, tổng
đốc tỉnh Nam Ðịnh, và đô đốc Ðiều, người đã bắt và giao nộp tên
đạo trưởng Ðậu và một số đồ đạo. Chúng hạ thần ký nhận và chịu
trách nhiệm rằng đạo trưởng Ðậu, còn có tên là Mateo, từ năm
Nhâm Tí 1732 cho đến nay đã sống tại Giao Thủy và dậy dỗ dân
chúng những điều chẳng nên và dụ hoặc những người dân đơn sơ. Vì
vậy quan Lê Phương và quan Ðiều đã sai Ðào Tất Ðạt truy lùng chỗ
ở. Sau khi dò thám ra nơi ở đã sai binh sĩ đến bắt giam và tịch
thu đồ đạo. Họ đã bắt giữ đạo trưởng Mateo và thầy Nguyễn Văn
Quí cùng với sách luật và tượng ảnh. Sau khi xem xét kỹ lưỡng
các sự việc kể trên, chúng hạ thần quyết định rằng đạo trưởng
'Hoa Lang' Mateo đáng tội chết và Nguyễn Văn Quí phải đầy chăn
voi cho vua và công việc nặng nhất sẽ dành cho y. Các đồ đạo thì
phải thiêu hủy. Ðối với quan Lê Phương và quan Ðiều vì đã có
công với quốc gia sai lính bắt được đạo trưởng nên sẽ trọng
thưởng 70 nén bạc. Ðó là bản án chúng hạ thần đệ trình lên chúa
châu phê. Ấn ký ngày 20-3-1744 (Âm Lịch), năm thứ năm của Minh
Vương".
Tuy nhiên bản án
trên đã không được thi hành, và vì có loạn nên 6 tháng sau bản
án được đổi sang lưu đồ chung thân. Bản án được châu phê, nhưng
ít ngày sau gặp thời kỳ hạn hán nên chúa Trịnh ra lệnh giảm các
án, Thầy Quí được trả tự do sau khi nộp một số tiền, còn Cha Ðậu
thì bị tù chung thân. Ngày 30-5-1744 cha được chuyển sang ngục
Ðông, nơi Cha Tế đang bị giam giữ. Cũng như Cha Tế, ngài thường
ra nhà bà Gạo dùng cơm và được khá nhiều tự do.
Trong tù, cha ăn
mỗi ngày một bữa, tiền còn lại đem cho người nghèo, đồng thời
cha còn dậy ba chú học tiếng Latinh, và giảng dậy cho những
người đến thăm cha, trong một căn nhà riêng cạnh nhà tù. Ngày lễ
có tới 150 người đến dự, có khi họ còn bí mật võng cha đi thăm
kẻ liệt. Có lần cả hai cha được đưa đến nói truyện với một quan
trong triều về đạo và tặng quan một cuốn sách.
Khi Cha Tế được
tin về án xử thì vui mừng, còn Cha Ðậu thì buồn. Giáo dân làm
bản kiến nghị để tù nhân kháng cáo lần cuối khi đi qua phủ chúa
Trịnh, Cha Ðậu cũng xin đi theo để chứng kiến việc hành quyết và
đồng thời đưa cho quan bản kiến nghị. Trong bản kiến nghị ngài
hỏi tại sao bạn ngài bị chém đầu còn ngài thì không, trong khi
cả hai cùng là đạo trưởng, nếu chém đầu thì phải chém cả hai,
còn nếu tha một thì phải tha cả người kia, và cuối cùng ngài yêu
cầu được cùng chung một số phận với người bạn. Chúa Trịnh thấy
hành động táo bạo như vậy liền ra lệnh làm một bản án cho Cha
Ðậu cùng bị chém. Bản án được viết như sau: "Các quan do chúa
Trịnh chỉ định, xét lại bản án do cấp dưới đã trình lên như sau:
Tên này trước kia đã bị kết án tử và bây giờ án được lập lại.
Vậy ngoại nhân thứ nhất Francis Gil (cha Tế) là một đạo trưởng
đạo 'Hoa Lang', tên ngoại nhân thứ hai Mateo (cha Ðậu) cũng là
đạo trưởng đạo 'Hoa Lang'. Tên sau này án được chuyển sang tù
chung thân nhưng vừa được đổi thành xử trảm. Ấn ký ngày 10-12
năm thứ năm Minh Vương. Quan án: Phương Hùng, Nghĩa Hậu, Liêm
Ngũ Lục, và Trung Hầu". Thế là hai cha cùng bị đem đi với 8 tên
tội phạm khác ra nơi xử.
Một nhân chứng
tường thuật buổi hành quyết như sau: Hai cha đi vào chỗ thứ ba
và bốn, giữa 8 tên tội phạm khác, bị xích lại với nhau thành một
hàng. Trời mưa đổ xuống trên đầu trần các ngài, thỉnh thoảng các
ngài giơ tay lau nước mưa, nét mặt vẫn hân hoan. Tới nơi các
ngài quì xuống cầu nguyện một lát. Sau đó được đưa tới mô đất có
trải chiếu sẵn, các ngài lại nằm phục xuống một lúc rồi quì lên,
nghiêng đầu chờ lệnh xử trảm. Giáo dân xin hai cha ban phép
lành. Các ngài xin họ đọc kinh Tin Kính và sau đó Cha Ðậu tính
giảng lần cuối cùng, nhưng một tên lính ngăn lại nói: "Chúa
Trịnh kết án vì giảng đạo sai lầm này sao ngươi còn muốn tiếp
tục?"
Cha Ðậu liền nói:
"Tôi đến Bắc Việt là để giảng đạo của Chúa trời đất để mọi người
dân cư trong nước này được biết Ngài là Chúa thật. Tôi quyết tâm
rao giảng vì biết rằng các vị ở đây chưa biết Chúa trời đất và
chưa phân biệt được điều lành điều xấu và không biết cái gì sẽ
xảy ra cho đời sau".
Một tên lính khác
lại nhắc lại: "Vua gớm ghét đạo này, sao còn cả gan nói nhảm
nữa?"
Cha Ðậu lại nói:
"Với cái chết vì đức tin, chúng tôi sẽ được phần thưởng trên
nước trời. Cái chết của chúng tôi làm chứng cho cả thế gian về
sự thật và sự thánh thiện của đạo Công Giáo trong ngày phán xét.
Chính vì vậy chúng tôi không sợ hãi gì cách chết này mà người ta
dành cho chúng tôi".
Vào lúc 4:00 giờ
chiều ngày 22-1-1745, đầu của hai vị anh hùng tử vì đạo rơi
xuống. Một tên lính thét lên: "Rồi đây đói kém và thiên tai sẽ
đổ xuống trên chúng ta. Tại sao cứ phải giết các đạo trưởng
không hề trộm cắp giết người? Chúng ta đều biết rõ họ là đấng
thánh".
Lòng tôn kính các
đấng anh hùng tử đạo đã lôi kéo nhiều người đến mộ các ngài để
cầu nguyện và xin ơn. Khi về họ còn mang theo nắm đất để kính
nhớ các ngài. Cả những người lương cũng đến cầu nguyện nữa.
Một người tên là
Giuse Can đã thề là kể chuyện có thật sau đây: "Thầy già Khiêm
đã kể cho tôi nghe chuyện tên lý hình Chân Nhuệ, đã bắt Cha Ðậu
trước đây, bị đau ốm lâu dài. Sau khi nghe biết Cha Ðậu đã chết
vì đạo thánh thì ông ta hối cải cầu xin với Cha Ðậu phù hộ, ông
ta được khỏi bệnh cách lạ lùng. Ông ta đã từ bỏ thần phật để
theo đạo do Cha Ðậu rao giảng".
Một trường hợp
khác được kể lại là người giữ chùa bị đau nặng dù đã cầu đảo các
thần phật và chạy chữa thuốc men nhưng vẫn không khỏi. Một người
Công Giáo đến thăm, lặng lẽ nhúng miếng vải đã được thấm máu đào
của Cha Ðậu vào ly nước rồi cho bệnh nhân uống mà không nói gì
cả. Bệnh nhân vừa uống hết ly nước thì cảm thấy khỏe mạnh. Ông
từ giữ chùa sau đó mới được biết liền xin trở lại đạo.
(ST)
Trường thi tử Đạo.
Matthêu Ðậu nêu gương anh dũng
Trước gian nguy Cha cũng hiên ngang
Thừa sai giảng đạo vững vàng
Xa rời Cố Quốc lên đàng truyền rao
Ơn Thiên Triệu biết bao cao quý
Ví đạo Trời quyết chí hy sinh
Ðầu tiên Ngài ở Trung Linh
Việt Nam Bắc Việt Triều đình lùng săn
Trong năm tháng học chăm tiếng Việt
Cha thông minh hiểu biết lẹ mau
Ðặt tên Ðậu bước khởi đầu
Giáo dân dễ nhớ mặc dầu người Tây
Cha đi lại đó đây đường bộ
Cũng có khi giả bộ thuyền chài
Tông đồ rao giảng công khai
Những nơi nguy hiểm nhưng Ngài vẫn đi
Mở nước Chúa sợ chi cản trở
Nếu bắt ta cũng ở ý Trời
Mười năm Cha trốn khắp nơi
Bao lần thoát hiểm Ngài thời vững tin
Người Kẻ Bái đắm chìm chối đạo
Tên Chính Nam họ báo cho Cha
Ngài liền tìm đến tận nhà
Gặp ông khuyên nhủ thật là khôn ngoan
Tại đất Bắc lan tràn dịch tễ
Cha chăm lo bất kể giáo lương
Giầu lòng bác ái phi thường
Ngày đêm đi khắp nẻo đường cứu dân
Một giáo hữu bất thần xớn xác
Lên tâu quan tố giác nơi Cha
Khi đang dâng lễ tại nhà
Lính quan ùa đến bắt Cha túm đầu
Ðạp vào hông nghe đau té xuống
Lột áo Ngài đụng nhuốm máu đầu
Áp giải đi suốt đêm thâu
Ðưa về Hà Nội ngõ hầu tống giam
Ðến ngày xử Ngài van lãnh án
Cùng Cha Tế người bạn đồng hành
Chúa Trịnh ký án rất nhanh
Hai Cha bị trảm ngoại thành Thăng Long
Trời mưa xuống thấm trong vết máu
Giơ tay lau đau thấu ruột gan
Hai Cha vui vẻ hân hoan
Giáo dân kéo tới xin ban phép lành
Một tên lính đứng canh nói vội
Vua rất ghét phách lối cả gan
Ðạo gì lừa gạt nhân gian
Chém đầu đứt cổ Thiên đàng ở đâu
Cha Ðậu nói phép mầu Chúa xuống
Cứu linh hồn lên chốn Thiên đàng
Xác thân tro bụi tiêu tan
Vua quan cũng vậy suy tàn diệt vong
Lý hình Nhuệ thật lòng sám hối
Cầu xin Cha tha lỗi cho con
Lạ lùng bệnh hết không còn
Thành tâm sám hối lãnh tròn ơn thiêng
Matthêu Ðậu năm sinh Nhâm Ngọ (1702)
Tại Navarey nước họ (Tây) Ban Nha
Ất Sửu (1745) tử đạo xứ ta
Bính Ngọ (1906) phong thánh danh Cha sáng ngời
Lời bất hủ:
Quan trấn Sơn Nam lúc đó là Lê Văn Phượng hỏi cha Matthêu Ðậu
rằng: "Ông có biết lệnh vua cấm giảng đạo không?" Cha đáp:
"Chính vì cấm, tôi mới phải ẩn trốn chứ". Quan liền thảo bản án
trảm quyết Cha Ðậu. |