Đức Cha Alcazar
tóm tắt cuộc sống thánh thiện và anh hùng của Cha Phêrô Almato
như sau: "Tôi theo dõi suốt cuộc đời của ngài và có thể làm
chứng rằng ngài không bao giờ phạm một tội trọng nào, lại hết
lòng gìn giữ đức trong sạch trinh khiết. Mặc dù sức khỏe yếu
kém, người ta chỉ có thể nói rằng Thiên Chúa định cho ngài sang
truyền giáo ở Việt Nam là để thưởng công triều thiên tử đạo cho
ngài. Quả thật Đức Cha Hermosilla đã ra lệnh cho Cha Almato và
Cha Munoz di tản sang Trung Hoa để tránh cơn lùng bắt dữ tợn,
nhưng Chúa để cho Cha Almato nhỡ tầu, còn Cha Munoz đi được. Cha
Munoz viết thư cho ngài: "Này anh Almato, lẽ ra anh phải sang
Macao chứ không phải là tôi. Như đức cha già khả kính Hermosilla
đã định, nhưng tôi không được phúc tử đạo, còn Thiên Chúa thưởng
nhân đức anh bằng phúc tử đạo".
Cha Almato sinh
ngày 1-11-1830 tại Catalogna, Tây Ban Nha, được cha mẹ đạo đức
đem đi rửa tội ngay và đặt tên thánh là Phêrô Giuse. Ngay từ bé
cậu Almato đã tỏ ra lòng đạo đức, thích đồ chơi bằng nhà thờ hay
đóng kịch làm cha đứng giữa các bạn giảng đạo. Khi lên 11 tuổi
đã đi học Latinh và tháng 8-1847 vào dòng Đaminh ở Ocanha để sửa
soạn đi giảng đạo ở phương Đông. Cha mẹ không muốn cho con đi
xa, nhưng ngài đã can đảm viết thư cho cha mẹ như sau: "Cha mẹ
đừng than khóc vì đứa con phải đi xa, nhưng hãy vui mừng vì ở
trên trời cha mẹ sẽ được phần thưởng vì những hy sinh. Hạnh phúc
cho chúng ta dường nào được gặp nhau ở trên đó, luôn luôn được
hiệp nhất với nhau trong vinh quang và không còn phải xa cách
nhau nữa. Cha mẹ hãy nghĩ rằng Chúa đã xếp đặt như thế không
phải để chúng ta khổ nhưng là để chúng ta được sự tốt lành, được
thanh tẩy và thánh hóa trong cuộc sống đời này và được phần
thưởng trong cuộc sống mai sau".
Quả thật là những
lời lẽ cao siêu của một tâm hồn đã xác tín muốn yêu Chúa đến mức
độ tuyệt hảo. Sau nhiều thử thách và gắng sức tu luyện, Thầy
Almato được khấn trọng thể ngày 26-9-1848. Trong dịp này thầy có
viết thư cho cha mẹ: "Cha mẹ quí mến, những việc lo dưới thế là
mong làm cho con đường thu ngắn lại và chắc chắn hơn, con cũng
vậy, con phải làm cho việc cứu rỗi linh hồn con chắc chắn. Con
không những chắc chắn về cuộc sống hiện tại mà con mong cho các
anh em con sớm bỏ biển khổ đầy lo lắng quen gọi là thế gian". Về
đời sống trong viện tu, Thầy Almato viết: "Ở đây con được bề
trên lo lắng săn sóc mọi sự cần, mặc dù chúng con đông nhưng
tình thương bao bọc đồng đều mọi người dường như là một vậy. Con
chẳng phải nghĩ gì khác". Viết cho người em gái đi tu, thầy
khuyên: "Không có gì xảy ra tình cờ, không có biến cố nào mà
không có báo trước. Những điều bất hạnh xem ra là sự dữ nhưng
nếu chúng ta biết suy nghĩ cho kỹ, chúng ta sẽ thấy sự dữ là một
điều lành, trong cái rủi ro là một may lành. Nếu anh cứ tiếp tục
than trách, anh sẽ chẳng bao giờ hết vì trong lòng chứa đầy sự
cay đắng".
Tháng 9-1852, Thầy
Almato được chỉ định sang Manila và chịu chức bên đó trước khi
được lệnh sang Bắc Việt. Cha viết về mong ước sang Bắc Việt với
người bạn: "Đã từ lâu tôi ước ao được sang truyền giáo ở Bắc
Việt. Tôi đã nhiều lần kêu xin với Chúa và Đức Mẹ và đã thưa với
các bề trên. Chúa đã nghe lời tôi. Tôi cảm tạ Chúa đã thương
chọn tôi cùng với ba cha khác đi truyền bá Phúc Âm cho dân
ngoại."
Ngày 11-1-1855
cha, lúc ấy mới 24 tuổi, lên đường đi Hồng Kông. Bao nhiêu khổ
cực, bao nhiêu hy vọng trên chuyến hành trình, cha ngước mắt lên
trời cao như muốn cho hy vọng thêm bao la. Bẩy tháng sau, ngày
3-7-1855, cha rời Macao để đến Bắc Việt và tới nơi ngày 11-7 tại
Nam Chân. Cha được đưa đến trình diện cha đại diện tỉnh dòng
Salvatore Masso và sau đó được tới Bùi Chu vào dịp lễ phong chức
giám mục cho Cha Sampedro ngày 1-9. Cha Almato được đặt tên Việt
là Bình, diễn tả tâm hồn bình an của cha. Cha học tiếng Việt tại
Kẻ Mốt một năm và sau đó được sai giúp Cha Fernandez trước khi
được chỉ định coi xứ Thiết Nham.
Giáo dân xứ Thiết
Nham nói về vị chủ chăn của mình như sau: "Cha Bình (Almato)
thường xin chúng tôi cầu nguyện cho ngài. Như thế tâm hồn sốt
sắng của ngài thúc đẩy con chiên chúng tôi chạy đến với ngài".
Năm 1858 lệnh vua Tự Đức bắt đạo ngặt nghèo nên Đức Cha
Hermosilla truyền lệnh cho Cha Almato tạm thời sang Trung Hoa vì
ngài kém sức khỏe, sợ không chọi nổi cảnh trốn chạy mà chết uổng
đi. Nhưng ý Chúa để cha bị nhỡ cơ hội, cha đi về Kẻ Mốt thăm đức
cha rồi trốn tránh ở Kẻ Nê, ở Thọ Ninh.
Năm 1861 với lệnh
phân sáp và không còn trốn tránh được nữa, Cha Bình xuống thuyền
ở với Đức Cha Ochoa Vinh hẹn đến với Đức Cha Hermosilla. Thế
nhưng thuyền của Đức Cha Hermosilla và Thầy Khang đã bị bắt ngày
20-10-1861. Đức Cha Ochoa và Cha Almato được ông trùm Trọng chèo
thuyền về Kim Phô nhờ một quan ở huyện là Hán Cáp giúp đỡ. Ông
quan này nhận lời giúp đỡ nhưng chính ông lại đi báo quan tỉnh
Hải Dương về bắt. Ngày 25-10-1861 quan huyện Thanh Hà đến bắt
Đức Cha Ochoa và Cha Almato giải về Hải Dương.
Quan tổng đốc Hải
Dương là Nguyễn Quốc Cẩm đặt thánh giá ở cửa thành, nhưng đức
cha yêu cầu có cất đi thì mới vào trong thành. Quan hỏi Cha
Almato về quê quán và thời gian ở Việt Nam bao lâu, Cha Almato
đáp: "Tôi là người Tây Ban Nha, sang Việt Nam được bẩy năm, tôi
rao giảng đạo tại nhiều nơi".
Quan lại hỏi có
biết Cha Tuấn (tên thứ ba của Đức Cha Hermosilla). Sau đó Đức
Cha Ochoa, Đức Cha Hermosilla và Cha Almato, mỗi người một cũi
được giam chung với nhau ở Trang Thu. Quan tổng đốc là người
hiền lành muốn thong thả làm án tâu về kinh, nhưng tổng đốc Nam
Định là Nguyễn Đình Hưng (Tân) sợ triều đình khiển trách nên ra
lệnh làm án trảm quyết ngày 1-11-1861.
Vào ngày lễ Các
Thánh, Đức Cha Hermosilla, Đức Cha Ochoa và Cha Almato được 300
người lính dẫn ra pháp trường Năm Mẫu ở ngoài thành Hải Dương để
chém đầu. Cha Almato vừa đúng 31 tuổi.
Khi xử ba đấng đã
có nhiều dấu lạ như được kể trong chuyện Đức Cha Hermosilla. Xác
các ngài được chôn tại chỗ ba tháng rồi mới được giáo dân lén
lút đem về chôn ở ba nhà khác nhau tại Thọ Ninh ngày 2-2-1862.
Sau này khi bốc mộ, xác Cha Almato Bình được đưa về chôn ở nhà
thờ Truyền Tin thuộc địa phận Vich là quê quán của ngài ở Tây
Ban Nha.
vncatholic.org
Trường thi tử đạo
Phêrô Almatô Bình linh mục
Sinh Tân Mão (1831) quê thực (Tây) Ban Nha
Thủa nhỏ đã tỏ ý ra
Lớn lên cố học làm cha giúp đời
Mười lăm tuổi học thời Chủng viện
Học tập hay phương tiện cũng nhiều
Hằng ngày có biết bao nhiêu
Sách báo cậu đọc đến điều say mê
Bữa nọ đọc bản tin truyền giáo
Của hội dòng giảng đạo Ðaminh
Ðọc xong cậu thấy lòng mình
Tự nhiên thích thú thuận tình xin đi
Ðược Giám mục chỉ huy khuyến khích
Con nên đi chủ đích (cứu) tha nhân
Việt Nam đang lúc rất cần
Thừa sai giảng đạo để nhân tín đồ
Thầy mừng rỡ hoan hô từ giã
Với gia đình và cả bạn bè
Ðến Ðaminh tiện đường xe
Thời gian thực tập lắng nghe lời thầy
Năm Mậu Thân (1848) trong ngày tuyên khấn
Thầy cầu xin thanh vắng với cha
Năm năm thần triết đã qua
Thụ phong linh mục thật là Chúa ban
Cha được đến Việt Nam phục vụ
Năm Ất Mão (1855) bám trụ Ðàng Ðông
Tiếng Việt cha học mau thông
Có tên tiếng Việt phổ thông cha Bình
Về (xứ) Nam An thuận tình (xứ) Kẻ Mốt
Hơn một năm thêm một (xứ) Thiết Nhan
Công việc ngài rất là ham
Sức khoẻ quá kém hễ làm lại đau
Cuộc bách hại về sau ác liệt
Các vòng vây tiêu diệt bủa ra
Càng thêm khổ cực cho cha
Nay đây mai đó quả là khổ thân
Việc giảng đạo trăm phần khó nhọc
Ngày trong hầm đêm gặp giáo dân
Dâng lễ giải tội ân cần
Hễ thấy lính đến nhanh chân chạy liền
Cứ như vậy liên miên ngày tháng
Bệnh hoành hành cha ráng vẫn đi
Bằng thuyền ngài chẳng ngại chi
Có lần tới bến lính thì bao vây
Thấy bụi tre gai đầy xuống nấp
Nước bùn lầy ẩm thấp biết sao
Nhiều năm cha sống tự hào
Người thì gầy yếu bệnh nào bớt cho
Trong người cha là kho lẫm Chúa
Ðầy mến yêu chan chứa tình thương
Mục tiêu là nước thiên đường
Thế trần khổ cực nêu gương sáng ngời
Lệnh cấm đạo đến thời phân sáp
Các thừa sai bố ráp đêm ngày
Lệnh về cha phải đi ngay
Ngài xin bám trụ đến ngày quy thiên
Cuộc bố ráp ngày thêm gạn lọc
Không còn nơi đùm bọc giấu che
Ðức Cha Vinh (và) ngài xuống ghe
Trong đêm tăm tối hướng ra Thái Bình
Hai cha con Bình - Vinh đêm ấy
Thật may sao gặp thấy Ðức Liêm
Ba người tri kỷ một đêm
Ngày mai kẻ ngược người êm tay chèo
Ngay hôm ấy gieo neo rồi đấy
Chính cha Bình nhìn thấy Ðức (Cha) Liêm
Soát thuyền chúng bắt được liền
Cha con sợ quá bỏ thuyền đi lên
Ngay lúc đó gặp tên Cựu Trọng
Là giáo dân cổ đọng tại đây
Vui mừng anh giới thiệu ngay
Ðến ông thửa ở ông này thầy lang
Ông lang thửa sẵn sàng cho ở
Cùng hai ngài niềm nở thân thương
Ngờ đâu thằng cháu chủ trương
Bắt ngài đem nộp chẳng thương ham tiền
Quan Tổng trấn người hiền hiếm có
Thấy các ngài gặp khó thì thương
Hỏi cung lấy lệ thông thường
Tuy nhốt trong củi chủ trương nhân từ
Quan Tổng đốc khó ư Nam Ðịnh
Nghe tin đồn nổi thịnh nộ lên
Ỷ mình cao cả cấp trên
Ép quan Tổng trấn Hải Dương có tình
Phải lập án tử hình trảm quyết
Thôi thế là từ biệt trần gian
Tân Dậu (1861) tử đạo trao ban
Suy tôn Bính Ngọ (1906) hỷ hoan Nước Trời
Lời bất hủ: Quan tổng đốc Hải Dương hỏi cung cha. Cha
đáp: "Tôi là linh mục, tên tôi là Bình, người Y Pha Nho, sang
Annam giảng đạo được 7 năm tại nhiều nơi".
Cha được phúc Tử đạo đúng ngày sinh nhật tròn 30 tuổi của ngài.
|