118 Vị Tử Đạo Việt Nam


Phêrô Bắc (1818-1860)

Phêrô Bắc (Pierre Francois Neron), Sinh năm 1818 tại Bornay, Saint-Claude, Pháp, Linh mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Tây Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 3/11/1860 tại Sơn Tây dưới đời vua Tự Ðức. Đức Piô X suy tôn linh mục Phêrô Néron Bắc lên bậc Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 3/11.

Chọn Việt Nam làm quê hương.

Tuy chỉ ở Việt Nam hơn 11 năm, thánh Phêrô Néron Bắc đã trở lên như người Việt Nam chính gốc. Cha cũng tập ăn tương cà như mọi người. Cha có công phiên dịch ra tiếng Việt sách toán Pháp, chuyển ngữ các bài triết học, thần học cho các chủng sinh, và cuối cùng gởi nắm xương tàn cho mảnh đất thân yêu này, như ước nguyện khẩn cầu với Mẹ Mân Côi trong những ngày tu học ở Hội Thừa Sai Paris.

Phêrô Phanxicô Néron sinh ngày 21.09.1818 tại Bordeaux, giáo phận Saint Claude, nước Pháp. Là con thứ năm trong gia đình có chín anh em. Thuở thơ ấu của Néron khá vất vả. Tuy được đi học, nhưng mỗi ngày cậu phải ra đồng chăn súc vật, vì thế chịu nhiều ảnh hưởng xấu của các bạn. Thế nhưng, một biến cố đã thay đổi cuộc đời cậu. Năm 17 tuổi, một người cho cậu mượn một cuốn sách đạo đức, cậu đọc và nhận ra tiếng Chúa kêu gọi mình. Từ đó cậu thay đổi hẳn lối sống.

Năm 19 tuổi, Néron xin nhưng mãi đến ngày 14.02.1839 (21 tuổi) mới được vào chủng viện Neteroy. Sau sáu năm, thày lên học tại chủng viện Saunier, rồi xin gia nhập Hội Thừa Sai Paris và thụ phong linh mục ngày 17.06.1848. Bề trên cử cha Néron đi giảng đạo tại Việt Nam. Trong những ngày đợi tàu, cha Néron thường xin Đức Mẹ Mân Côi cho mình được dâng hiến mạng sống vì xứ vụ tại xứ truyền giáo. Ước nguyện của cha là một khi đã vào được Việt Nam, sẽ không bao giờ phải rời khỏi đất nước này.

Ngày 28.03.1849, cha đến trình diện Đức cha Retord Liêu, khi ấy đang coi giáo phận Tây Đàng Ngoài. Đức cha gởi cha Néron đến Kẻ Vĩnh để học tiếng Việt và đặt cho ngài tên mới là Bắc. Năm 1852, Đức cha trao cho cha giúp xứ Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Năm 1854, Đức cha cử cha làm bề trên chủng viện Kẻ Vĩnh coi sóc 150 em. Cha kiên nhẫn giảng dạy chủng sinh các kiến thức cần thiết và dịch cho họ sách toán học ra tiếng Việt. với các lớp đại chủng sinh, cha dạy họ về triết lý và thần học. Một lần cha bị bắt, nhưng được Đức Giám mục chuộc lại.

Những chặng đường ThậpTự.

Dù bận rộn với việc giảng dạy, cha Bắc đã không sao lãng đời sống nội tâm. Mỗi ngày cha đều quỳ suy niệm cuộc thương khó Đức Chúa Giêsu qua 14 chặng đường Thánh Giá. Cha ăn chay các ngày thứ sáu, các ngày vọng lễ trọng, suốt mùa chay và đặc biệt cả những ngày vọng lễ Đức Mẹ. Năm 1858, đang khi phụ trách bốn giáo xứ ở trên Sơn Tây, coi sóc 16 ngàn tín hữu, cha bị bắt lần thứ hai, phải chuộc mất 300 lạng bạc.

Ngày 17.01.1860, vì bị thất bại trong việc quan hệ với Pháp, vua Tự Đức đã ra một chiếu chỉ cấm đạo gắt gao hơn : "Tất cả các quan phải triệt để thi hành triệt để chỉ thị của Trẫm. Nếu theo ý riêng mình như xảy ra trước đây, sẽ bị nghiêm phạt như kẻ vi phạm luật nhà nước". Chiếu chỉ trên khiến các quan địa phương không dám chểnh mảng trong việc bách hại đạo nữa. Cha Phêrô Bắc lại là người Au Châu da trắng, vóc dáng cao lớn, nên rất dễ bị lộ. Các giáo xứ Công Giáo cũng không dám cho cha ẩn trú lâu ngày. Chỗ ẩn thường xuyên của cha giờ đây là rừng rậm. Nhưng rừng rậm đâu phải là dễ đi. Có lần cha bị mất liên lạc với cha giáo hữu, bị đói khát đến kiệt sức ngất xỉu dưới một gốc cây. May mắn sau đó dân làng Tạ Xá tìm thấy liền lấy nước cháo tiếp cho cha từng muỗng, một giờ đồng hồ sau mới tỉnh lại được.

Một hôm có tin báo là quân lính đã biết cha ở làng Tạ Xá, dân làng liền xin lỗi rồi mời cha lên một ghe nhỏ đẩy ra giữa đồng, tiếp tế ít lương thực, rồi đưa cha đến làng Yên Tập. Dân Yên Tập cũng hoảng quá, liền cử một cụ già dẫn cha lên một đỉnh núi vắng vẻ, ở trong lều lợp bằng lá chuối. Cha phải ở đó với cụ ba tuần lễ, mỗi ngày chỉ được một nắm cơm nguội, vì nếu chụm lửa nấu cơm sẽ bị phát hiện. Thức ăn duy nhất là một hũ tương, thỉnh thoảng mới được một ít cà muối. Cũng may là cha đã làm quen với món ăn này từ trước.

Cơn bách hại ngày càng gay gắt, cha Bắc phải tiếp tục di chuyển. Ở làng Suồng ba tháng trong nhà một người ngoại giáo tốt bụng, rồi ở Chiêu Ửng, bị quan quân rượt chạy sang làng Ru Bơ, rồi ẩn trong rừng rậm nửa tháng, lại về Yên Tập, Tạ Xá và bị bắt. Có một người tên Luyện đánh bạc thua ông Lý trưởng 100 quan, ông hứa tha nợ nếu anh chỉ chỗ cha Bắc ẩn trú. Và anh "Giuđa" này đã bán cha với giá tiền đó.

Ngày 05.08.1860, theo sự chỉ dẫn của anh Luyện. Lý trưởng và Cai tổng Mờn đem lính đến bắt cha đang ẩn nấp tại nhà bà Truật. Cha xứ Yên Tập cho giáo hữu đem tiền đến chuộc. Viên cai đội này không chịu, nhưng ông vẫn nhận tiền và hứa ghi vào hồ sơ là bắt được cha Bắc ở ngoài đồng vắng, nhờ thế không có ai bị liên lụy. Đó cũng là điều bận tâm nhất của cha Bắc. Trước mặt quan Sơn Tây, cha luôn luôn bình tĩnh, khẳng khái và cẩn mật. Quan hỏi cha đã gặp những ai, ở nhà nào và được ai giúp đỡ. Cha thẳng thắn trả lời: "Xin quan đừng hỏi làm chi, tôi sẽ không khai ai hay vùng nào cả. tôi không muốn người ấy hay vùng đó bị các quan làm khó đâu". Quan truyền đánh đòn cha 40 roi, nhưng cha cắn răng chịu, không khai một lời cũng không than một tiếng.

Ông thần sống

Điều làm quan, lính và dân miền Sơn Tây ngạc nhiên hơn cả là cha đã nhịn ăn 21 ngày liền, mỗi ngày chỉ uống một bát nước. Ngồi trong cũi chật hẹp mà khuôn mặt lúc nào cũng vui tươi. Các vết thương lở loét, cha cũng không xin thuuốc chữa trị gì hết. Dân chúng đồn thổi với nhau coi cha như một "ÔNG THẦN SỐNG". Họ bảo: "Không ăn mà vẫn sống, thật lạ lùng". Thấy để cha sống lâu, dư luận bất lợi, quan tỉnh liền làm án về kinh đô xin chém đầu và bêu giữa chợ ba ngày rồi thả trôi sông. Vua Tự Đức liền chuẩn phê theo án xin.

Ngày 03.11.1860, vị tông đồ bị dẫn đi xử tại pháp trường Sơn Tây, cách Hà Nội khoảng 50 cây số. Cha xin được cởi trói, cổ vẫn mang gông, bước đi nhẹ nhàng giữa tốp lính bên người cầm gươm sáng loáng. Đến pháp trường, vị chứng nhân quỳ xuống sốt sắng cầu nguyện, rồi giơ cho lý hình chém. Hai người lính đứng hai bên tử tội cùng vung gươm một lượt, giữa lúc chiêng trống khua lên ba hồi chín tiếng.

Vì nhịn ăn 21 ngày trước đây, dân chúng người ngoại giáo cũng tranh nhau thấm máu "ông thần sống". Cha Độ, chánh xứ Bách Lộc, nhờ một người ngoại giáo đến xin thi thể vị tử đạo để chôn cất, nói rằng : "Tội nghiệp ông Tây không có thân nhân nên làm phúc để đức cho con cháu". Ba ngày sau, cha Độ tìm cách chuyển thi hài về an táng ở nhà xứ. Thủ cấp vị tử đạo bị ném xuống sông Hồng, sau các giáo dân tìm vớt hoài mà không thấy.

Đức Piô X suy tôn linh mục Phêrô Néron Bắc lên bậc Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Giáo phận nguyên quán Saint Claude hằng năm tổ chức lễ trọng thể ngày 03.11 với bài lễ riêng và chọn ngài làm bổn mạng giới trẻ trong giáo phận.

Nguồn từ thư viện Đa Minh

Trường thi tử Đạo.

Cha Phanxicô Neron Bắc linh mục
Năm Mậu Dần (1818) sinh đất Paris
Thủa nhỏ học chẳng ra chi
Sáng cho học chiều đi chăn bò

Bởi vì thế chẳng lo đạo đức
Cùng mục đồng mặc sức chơi hoang
Mười bảy tuổi Chúa soi đàng
Ðọc được quyển sách mở mang tinh thần

Kể từ đó chuyển dần cuộc sống
Trước hoang đàng nay giống trượng phu
Một hai xin được đi tu
Năm hăm mốt tiếp thu vào dòng

Chín năm học một lòng son sắt
Chúa quan phòng sắp đặt cho thầy
Linh mục chịu chức phúc thay
Từ xưa nào biết có ngày vinh quang

Cha quyết định xin sang truyền giáo
Hội thừa sai thông báo Paris
Ðơn xin chẳng trở ngại chi
Cho xứ truyền giáo ấy thì Việt Nam

Ðường đi đến gian nan cách trở
Ðến khi nào được ở Việt Nam
Khó khăn mọi sự Chúa ban
Kỷ Dậu (1849) qua bến bình an tới bờ

Cha sửa soạn đến giờ trình diện
Ðức Cha Liêm thực tiện phân công
Kẻ Vĩnh nhà xứ đang mong
Cử cha về đó coi trông xứ nhà

Cũng từ đó đặt cha tên Bắc
Tên Việt Nam cha rất vui mừng
Kim Sơn xứ đạo tưng bừng
Ðón ngài về đó lẫy lừng tiếng tăm

Ở Kẻ Vĩnh một năm lại chuyển
Ðiều ngài về Chủng viện trông coi
Triết thần giảng giải rạch ròi
Dịch sang tiếng Việt tuyệt vời công cha

Lệnh cấm đạo ban ra gay gắt
Ðã một lần bị bắt chuộc ra
Vâng lời phân bổ Ðức Cha
Ngài lên phụ trách điểm là Sơn Tây

Bốn xứ đạo vùng này đông lắm
Mười sáu ngàn say đắm giảng rao
Chính quyền vùng đó tiến vào
Bắt cha đòi chuộc ngọt ngào ba trăm (300 lạng bạc)

Ở đây được vài năm vô sự
Bổng một ngày tự sự không qua
Chiếu chỉ Tự Ðức ban ra
Quan nào chểnh mảng thì ta bỏ tù

Các Cố đạo thầy tu bắt hết
Cả những người liên kết xưa nay
Ai làm nên nổi nước này
Các cha, các cố, các thầy trốn đi

Lòng mến Chúa xá chi gian khổ
Nay chốn này mai ở chổ kia
Dâng lễ trong những đêm khuya
Sống trong rừng rậm xa lìa giáo dân

Cũng có lúc tấm thân đói lả
Không cháo cơm, nước lã cũng không
Dân làng tạ xá thương lòng
Cho ăn để sống, nhưng không chứa ngài

Nay yên tập ngày mai tạ xá
Có một lần bí quá lên đồi
Ông già cha Bắc hai người
Ăn thì cơm nguội một vài muỗm tương

Ngài trốn tránh trăm đường vất vả
Vẫn một lòng hỷ xả chăn chiên
An Tập xứ đạo trong miền
Về thăm bị bắt thưởng tiền trăm quan

Ông thần sống có gan nhịn đói
Hăm mốt ngày vẫn nói vẫn cười
Sắc mặt cha vẫn vui tươi
Dân trong vùng nói cha người thần tiên

Khi xử chém họ liền kéo đến
Thắm máu ngài chứng kiến thần linh
Phúc tử đạo năm Mậu Thân (1860)
Kỷ Dậu (1909) phong thánh lãnh phần thưởng Cha

Lời bất hủ: Quan tra hỏi cha rất kỹ, cha thẳng thắn trả lời: "Xin quan đừng hỏi làm chi, tôi sẽ không khai ai hay vùng nào đâu, tôi không muốn người ấy hay vùng đó bị các quan làm khó đâu". Quan truyền đánh cha 40 roi.