Lá thư tâm
sự
Qua những lời lẽ
được trích từ lá thư viết trong tù của thánh Giam mục Giuse An,
chúng ta có thể hiểu được phần nào tâm hồn của ngài. Với mẫu
thân và mảnh giấy xé trong sách, ngày đã nắn nót từng chữ viết
lên lời tuyên xưng niềm tin, bày tỏ ước nguyện dâng hiến đời
mình hòa với hy tế của Đức Kitô và biểu lộ lòng xác tín vào Quê
Trời vĩnh cửu, nơi ngài mong tái ngộ với mọi người thân yêu :
"Tù nhân trong
chúa gởi lời tạm biệt Đức Cha và các cha cho tới ngày gặp nhau
trên trời. xin tất cả anh em tha thứ cho những điều lầm lỗi và
gương xấu tôi đã làm ... Gông xiềng tôi đang mang được coi là
những báu vật Chúa Giêsu gởi cho tôi. tôi vui mừng lắm vì chỉ
ước ao đổ máu vì Chúa, để máu tôi hòa với Máu Cực Thánh Chúa
Giêsu rửa linh hồn tôi được sạch mọi tội lỗi. xin anh em cầu cho
tôi vững đến cùng... (Viết tại ngục Nam Định, ngày 28.5.1857,
Fray José Maria".)
Ước vọng
và nỗ lực
Giuse Diaz
Sanjurjo chào đời ngày 26.10.1818 tại Santa Eultia de Suegos,
tỉnh Lugo nước Tây Ban Nha. Là con cả của gia đình năm anh em,
trong đó người em gái là nữ tu Antonia. Lớn lên cậu theo học tại
chủng viện Lugo. Vì nội chiến, cậu bị gián đoạn ba năm học phải
trở về quê. Sau đó vào đại học Compostella. Trong giai đoạn này,
Giuse Sanjurjo được biết và cảm mến sinh hoạt truyền giáo của
dòng Đaminh Tại Viễn Đông. Vào dịp thuận tiện, cậu giã từ cha mẹ
bạn bè và xin vào tu viện Santo Domingo Ocana của tỉnh dòng
Đaminh Rất Thánh Mân Côi, đặc trách truyền giáo ở Viễn Đông.
Ngày 23.09.1842
cùng với bảy thỉnh sinh khác, cậu được lãnh tu dòng Thuyết Giáo.
Năm sau (24.09.1843), thày Sanjurjo khấn dòng trong tay bề trên
Orge. Vì đời sống đạo đức, nhiều khả năng và ước vọng loan báo
Tin Mừng của thày đã được khẳng định ngay từ khi thày đến Ocana,
nên sau đó nửa năm, thày được gởi tới Cadiz chuẩn bị đến miền
truyền giáo. Tại Cadiz, thày thụ phong linh mục ngày 23.03.1844,
và cùng với năm tu sĩ bạn đến Manila (Phi luật Tân) ngày 14.09
năm đó. Sáu tháng sau, vị linh mục trẻ tuổi lại lên đường qua
Macao, rồi từ đó đến giáo phận Đông Đàng Ngoài ngày 12.09.1845
với tên Việt là An. Sau thời gian học tiếng Việt, cha được đề cử
coi sóc chủng viện tại Nam Am.
Cuộc bách hại năm
1848 của vua Tự Đức đã gây thiệt hại nặng nề cho chủng viện. Cha
An và cha Alcazar Hy phải gấp rút giải tán của chủng sinh, cho
chôn giấu các đồ thờ phượng, và đau buồn nhìn chủng viện bị tàn
phá. Trong thư gởi cho bạn ở quê nhà, cha viết : "Chúng tôi
chẳng còn nhà, chẳng còn sách vở quần áo, chẳng còn gì nữa…
nhưng chúng tôi vẫn an tâm vì nhớ lời Thày Chí Thánh : con người
không có chỗ gối dầu…"
Sau đó cha An phải
lánh nạn đến Ngọc Cục qua Ninh Cường vài tuần, rồi sang miền Cao
Xá. Vì nhiệt tâm với tương lai của giáo phận, cha mở lại chủng
viện cho các chủng sinh cũ ngay tại Cao Xá. Thời gian này cha
biên soạn cuốn Văn phạm Latinh bằng tiếng Việt.
Vị giám
mục phó hăng say
Năm 1848, vì số
giáo hữu trong giáo phận gia tăng, Đức cha Hermosilla Liêm xin
Tòa Thánh chia khu vực dòng Đaminh thành hai giáo phận. Qua văn
thư ngày 05.09, Đức Piô IX thiết lập giáo phận Trung tách địa
khỏi phận Đông Đàng Ngoài. Giáo phận Trung gồm hai giáo phận
hiện nay là Bùi Chu, Thái Bình với khoảng 140.000 giáo hữu và
624 xứ.
Linh mục Marti Gia
khi nghe tin được chọn làm Giám mục giáo phận mới thì tỏ ra lo
lắng và đến hỏi ý kiến cha Sanjurjo An đang ờ Trung Lễ. Trong
bầu không khí trao đổi thân mật, cha An phân tích các mặt của
nhiệm vụ Giám mục với những khó khăn trong thời cấm đạo. Rồi cha
đề cập đến các nhu cầu của cộng đoàn dân Chúa, đến vai trò của
các phẩm trật. Sau cùng cha đã thuyết phục thành công cha Marti
Gia lãnh nhận vinh dự, cũng là gánh nặng chủ chăn giáo phận mới.
Nhưng một điều cha
An không ngờ : trong sắc lệnh bổ nhiệm Đức cha Marti Gia, tòa
thánh đã cho vị tân Giám mục quyền chọn vị Giám mục phó. Đức cha
Gia liền chọn Giám mục phó là cha An, người đã thuyết phục mình
nhận chức. Ngày 05.04.1849, cha Sanjurjo An được thụ phong giám
mục hiệu tòa Platea cùng với cha Alcazar Hy, người được chọn làm
Giám Mục phó cho Đức cha Hernosilla Liêm.
Sau đó, vị tân
Giám mục lại trở về Cao xá tiếp tục coi sóc chủng viện. Trong
thư gởi gia đình, Đức cha viết "Ở đây chức vụ cao chỉ thêm công
việc, con thường phải đi bộ, có khi phải đi chân không, nhiều
lần phải lội bùn đến đàu gối, để trốn tránh những người tìm
bắt".
Tháng 03.1850, Đức
cha An trao chủng viện cho cha Sampedro Xuyên, rồi đi kinh lý
toàn tỉnh Hưng Yên. Nhưng cuộc kinh lý phải bỏ dở vì quan quân
truy lùng quá gắt gao. Hai linh mục Việt Nam cùng đi với cha bị
bắt. Trở về Cao Xá, Đức cha bị sốt rét nặng một thời gian.
Vị mục tử
tận tình
Năm 1852, Đức cha
Marti Gia lâm bệnh nặng phải rời bỏ xứ truyền giáo và qua đời
ngày 26.4 tại Hương Cảng trong sự luyến tiếc của các giáo hữu
Việt Nam. Kể từ đó, Đức cha An phải gánh vác toàn Giáo phận
Trung. Ngài về tòa Giám mục ở Bùi Chu và trực tiếp điều hành
việc truyền giáo. Số tân tòng gai tăng mau lẹ. Số rửa tội năm
1852 của giáo phận ghi thêm tên của 28.355 người. Đức cha viết :
"Đó quả là phần
thưởng đầy khích lệ các nhà truyền giáo tiếp tục những trách vụ
tông đồ, bất chấp mọi âm mưu của thần dữ, không nản lòng trước
những cơ cực thiếu thốn, trước nguy hiểm vây quanh và những
nghịch cảnh có thể xẩy đến…".
Năm 1854, Đức cha
Sanjurjo An mở lệ trọng thể kính thánh tổ phụ Đaminh tại Lục
Thủy, có đông đủ các cha dòng triều, các chủng sinh, nữ tu và
trên 20.000 giáo hữu khắp nơi về tham dự. Sau lễ, Đức cha họp
hội đồng giáo phận để thảo luận về nhiều vấn đề có ích lợi
chung. Ngài con tổ chức thi kinh bổn giữa các giáo xứ và các
buổi tranh luận về tôn giáo. Có lần ngài viết một số vấn nạn về
giáo lý bằng chữ hán phát cho các thày Nho. Đến ngày hẹn, khoảng
30 thày, đa số ngoài công giáo đến dự cuộc. Đức cha khai mạc và
nói vài lời gợi ý, sau đó để các thày tự do phát biểu. Mọi thắc
mắc đều được Đức cha giải đáp thỏa đáng, khiến các thày và dân
chúng trong huyện đó phải khâm phục.
Năm 1855, ba cha
dòng mới từ Macao tới Việt Nam đem theo sắc lệnh đặt Đức cha An
làm Giám mục đại diện Tông tòa giáo phận Trung, và trao quyền
chọn phụ tá. Đức cha đã chọn cha Sampedro Xuyên và tổ chức lễ
tân phong giám mục ngày 19.09 tại thánh đường Bùi Chu, với sự
tham dự của 49 linh mục và đông đảo giáo dân, đến nỗi khu vực
Bùi Chu không đủ nhà để trọ. Số trẻ ngoại đạo được rửa tội trong
năm này là 35.349 em.
Giông tố
bách hại.
Từ năm 1854, tại
miền Bắc có giặc Châu Chấu của Lê Duy Cự và Cao Bá Quát. Nhóm
này hứa hẹn và cổ động giới công giáo tham gia nổi loạn, nhưng
rất ít người theo vì Đức cha đã lên tiếng cấm chống lại chính
quyền. Nhờ đó, các quan địa phương nới tay trong việc thi hành
sắc lệnh của nhà vua. Tổng đốc Nguyễn Đình Tân biết rất chính
xác trụ sở Tòa Giám mục, nhưng không muốn bắt, ông còn hứa hẹn
nếu bất đắc dĩ phải đem quân truy nã thì ông sẽ cho báo trước.
Tháng 5.1857, đúng
lúc có viên quan Thượng thư từ kinh đô ra Nam Định, thì Chánh
Mẹo ở làng Thoại Miêu lên tỉnh tố cáo rằng : "Có đạo trưởng Tây
tên An ở Bùi Chu". Vì có quan trên, quan Tổng đốc buộc lòng phải
ra lệnh truy bắt, nhưng cũng báo cho Đức cha, tiếc rằng tin đến
nơi thì Đức cha đã bị bắt. Khi quân lính đến bao vây, Đức cha
luống cuống chạy ẩn đến bốn chỗ và cuối cùng, ngài ngồi giữa một
bụi tre khá kín đáo. Nhưng đúng lúc ngài ngó đầu ra xem lính đi
chưa, thì bị phát hiện và bị bắt. Quân lính tước đoạt Thánh Giá
và nhẫn Giám mục, sau đó trói ngài dẫn đi. Rồi họ kéo nhau vào
nhà chung để cướp của và thiêu hủy những gì họ không đem đi
được.
Sau một đêm bị
giam tại phủ Xuân Trường, vị anh hùng đức tin được quan quân
giải về Nam Định. Tại đây, Tổng đốc Nguyễn Đình Tân tỏ ra tiếc
khi thấy Đức cha bị bắt, nhưng vì sợ quan Thượng Thư nên phải xử
với ngài như tù phạm. Đức cha bị biệt giam hai tháng, chỉ còn ba
lần một linh mục giáo phận vào ban bí tích, và một lần người của
Đức cha Retord Liêu vào thăm. Tuy bị xiềng xích gông cùm, Đức
cha An luôn bình tĩnh vui vẻ đón chờ phúc tử đạo. Nhiều lần quan
bắt ngài đạp lên Thánh Giá nhưng ngài cương quyết từ chối.
Nhát gươm
di chúc.
Ngày 20.07.1857,
có án tử hình từ kinh đô ra, truyền chém đầu "Tây dương đạo
trưởng tên An". Trên đường ra pháp trường Nam Định, Đức cha An,
tay cầm sách nguyện, vừa đi vừa suy niệm, vẻ mặt bình thản. Đến
nơi xử, quân lính vây quanh ngài ba vòng : vòng trong cầm gươm,
vòng giữa cầm giáo, vòng ngoài cầm cờ, cưỡi ngựa, cưỡi voi. Đức
cha An xin hoãn một lát, rồi lớn tiếng nói đôi lời với những
người có mặt, sau đó nói với viên chỉ huy :
"Tôi xin gởi quan
30 đồng tiền để xin một ân huệ : xin đừng chém tôi một nhát,
nhưng là ba nhát. Nhát thứ nhất tôi tạ ơn Chúa đã dựng nên tôi,
và đưa tôi đến đất Việt giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ
sinh thành ra tôi, còn nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn
đạo của tôi, để họ bền chí chết cho đức tin, theo gương vị chủ
chăn của mình. Và như thế họ đáng lãnh phần hạnh phúc cùng các
thánh trên trời".
Đức cha vừa dứt
lời, quân lính trói ngài vào cây cọc hình Thập Giá. Dân chúng òa
lên khóc. Lý hình chém Đức cha ba nhát như ngài xin. Đầu và mình
của vị tử đạo bị liệng xuống sông. Có hai người lính thấm máu vị
tử đạo liền bị tống giam. Đồ đạc, sách vở của Đức cha đều bị
đốt. Chén lễ, áo lễ thì trao cho đoàn văn nghệ sĩ sử dụng. Đến
sau dân chài lưới đã vớt được thủ cấp vị tử đạo. Đức cha Xuyên
an táng thủ cấp này tại Bùi Chu, một thời gian sau, tu viện
Santo Domingo ở Ocana xin rước cốt của Đức cha An về tôn kính từ
năm 1891, vì Đức cha là vị tử đạo tiên khởi của tu viện.
Ngày 29.04.1951,
Đức Piô XII suy tôn Đức cha Giuse Diaz Sanjurjo An lên bậc Chân
Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc
Hiển thánh.
Nguồn từ Đa
Minh
Trường ca tử đạo
Giuse Maria An
giám mục
Năm Mậu Dần (1818) quê thực Sucgos (Tây Ban Nha
Thừa Sai truyền giáo điểm tô
Loan truyền đạo Chúa tung hô danh Ngài
Nhận nhiệm sở quản cai chủng viện
Tại nơi đây huấn luyện chủng sinh
Ngài học tiếng Việt thông minh
Nhiều người quý mến, tận tình giúp Cha
Thời gian ấy đạo ta ổn định
Khỏi phải lo quân lính bao vây
Chỉ chuyên đào tạo các thầy
Tấn phong Linh mục ơn đầy giảng rao
Ðược mấy năm lính bao Lục Thủy
Người lương dân bắt quý Thừa sai
Nộp quan được thưởng tiền tài
Cũng như chức tước thẻ bài vua khen
Giám mục An nhiều phen chạy trốn
Tại làng Cao Xá chốn tạm yên
Người luôn thăm viếng các miền
Chăm lo dạy học nhủ khuyên các thầy
Phong Giám mục nơi đây phụ tá
Vatican phúc cả ban trao
Bùi Chu thành lập nâng cao
Trở nên Giáo phận giảng rao Tin mừng
Tòa Giám Mục bỗng dưng ngọn lửa
Cháy rụi thiêu nhà cửa ra tro
Ðức Cha An can đảm lo
Chúa ban Chúa cất con đò giữa khơi
Hãy cố gắng ta thời vượt sóng
Cố mà bơi mau chóng tới bờ
Thử lòng Chúa chẳng làm ngơ
Ngài sẽ trọng thưởng bến bờ đón ta
Thời kỳ ấy dân đà nổi loạn
Cấm giáo dân bè bạn kéo theo
Khắp nơi tình thế ngặt nghèo
Thống Ðốc Nam Ðịnh truy theo cấp kỳ
Mắt đau chữa khỏi vì Cha Tịnh
Nhiều cảm tình có tính nể nang
Bao che cho cả xóm làng
Thừa sai Công giáo dễ dàng truyền rao
Nhưng tầu Pháp tiến vào gây hấn
Lòng thượng quan trác ẩn đổi thay
Các nơi cho lính bao vây
Thừa sai lùng bắt cả ngày lẫn đêm
Bùi Chu sẵn có tên danh sách
Từ tỉnh Nam có cách đâu xa
Lính về vây bắt Ðức Cha
Xiềng gông giải tỉnh quan tra hỏi ngài
Ðức Cha nói một hai về đạo
Không hề chịu khai báo tin gì
Quan đòi xét lại hỏi đi
Nhưng ngài cương quyết vẫn thì tuyên xưng
Quan loan báo tin mừng trục xuất
Ðức Cha buồn như mất dịp may
Tôi xin ở lại nước này
Pháp trường tử đạo hồn bay về Trời
Tên đạo trưởng không rời đất Việt
Ở lại đây vĩnh biệt thế gian
Quả rằng cố chấp quá gan
Xin vua duyệt xét lệnh ban chém đầu
Khi nhận lệnh ngõ hầu khẩn cấp
Nhặt đầu rơi bỏ gấp vào bao
Cả xác thân nhặt gom vào
Cho thêm nhiều đá ném vào đáy sông
Ðể bổn đạo nó không tìm thấy
Trộm đem về giữ lấy tôn thờ
Nghiêm ngặt chớ có làm ngơ
Lâu sau phép lạ bất ngờ Chúa ban
Một giáo hữu dân làng lưới cá
Vớt được xác nên đã đem về
Liệm ngài án táng miền quê
Mồ êm mả ấm hồn về Thiên Cung
Phúc tử đạo oai hùng Ðinh Tỵ (1857)
Danh tánh Ngài đề nghị vinh thăng
Năm Tân Mão (1951) sắc chỉ đăng
Suy tôn Chân phước vĩnh hằng thánh An
Lời bất hủ: Ðức cha An xin hoãn một lát, rồi lớn tiếng
nói đôi lời với những người có mặt, sau đó nói với viên chỉ huy:
"Tôi xin gởi 30 đồng tiền để xin một ân huệ, xin đừng chém tôi
một nhát, nhưng là ba nhát. Nhát thứ nhất tôi tạ ơn Chúa đã dựng
nên tôi, và đưa tôi đến đất Annam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ
ơn cha mẹ đã sinh thành ra tôi, còn nhát thứ ba như lời di chúc
cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí chết cho đức tin, theo
gương vị chủ chăn của mình. Và như thế, họ đáng lãnh phần hạnh
phúc cùng các thánh trên trời". Trích lá thư Ðức cha viết cho
người thân yêu từ trong ngục tù như sau: "Tù nhân trong Chúa gửi
lời tạm biệt Ðức cha và các cha cho tới ngày gặp nhau trên nước
trời. Xin tất cả anh em tha thứ cho những điều lầm lỗi và gương
xấu tôi đã làm. gông xiềng tôi đang mang được coi là những báu
vật Chúa Giêsu gửi đến cho tôi. Tôi vui mừng lắm và chỉ ước ao
đổ máu vì Chúa, để máu tôi hoà với Máu Cực Thánh Chúa Giêsu rửa
linh hồn tôi được sạch mọi tội lỗi. Xin anh em cầu cho tôi vững
đến cùng." |