THẦN ĐÔ HUYỀN NHIỆM
ĐỨC MARIA ĐẾN THĂM BÀ ELISABETH Sách Phúc Âm nói: “Trong những ngày đó, Đức Maria chỗi dậy vội vàng đi tới miền đồi núi, vào một thị trấn xứ Judea” (Lc 1:39). Việc chỗi dậy của Đức Maria không phải chỉ nói đến những chuẩn bị bên ngoài và rời khỏi Nazareth, nhưng còn nói đến sự chuyển động tinh thần của Mẹ Maria, những thúc đẩy, lệnh Thiên Chúa truyền hướng dẫn Người chỗi dậy bề trong từ nơi náu ẩn khiêm tốn đã được chọn trong tinh thần khiêm nhượng. Đức Maria chỗi dậy chẳng khác gì từ nơi chân Đấng Tối Cao, Đấng mà Người luôn luôn tìm kiếm để chu toàn thánh ý và làm hài lòng, như một nữ tì thấp hèn nhất, theo lời thánh vương David (Tv 122:2) dõi nhìn đôi tay nữ chủ, chờ đợi lệnh truyền. Chỗi dậy theo tiếng Chúa mời gọi, Đức Maria đã mau mắn âu yếm chu toàn thánh ý, để giành được không chần chờ việc thánh hóa vị Tiền Hô của Ngôi Lời nhập thể, Vị Tiền Hô này tới nay còn bị giam cầm trong tội nguyên tổ nơi lòng thánh Elisabeth. Đây là mục đích cuộc hành trình này. Vì thế Vị Công Nương thiên quốc đã chỗi dậy mau mắn rấn bước đăng trình. Rời bỏ ngôi nhà cha mẹ và quên đi dân của Người (Tv 44:11), hai vị Phu Thê tối ư trinh khiết, Đức Maria và thánh Giuse, giong ruổi hành trình tới nhà thánh Zacharia ở miền đồi núi xứ Judea. Cuộc hành trình dài hai mươi sáu dặm (tương đương 43 cây số ngày nay). Từ Nazareth đường đi hầu hết gập ghềnh đứt đoạn, băng đèo, vượt suối. Toàn thể tiện nghi các ngài sử dụng được trong hành trình gay go này là con lừa khiêm tốn, Đức Maria ngồi trên lưng lừa từ lúc khởi đầu hành trình. Mặc dầu con lừa đó chủ ý chỉ để phục vụ Đức Trinh Mẫu, nhưng Đức Maria, Đấng khiêm tốn và hiền lành hơn hết mọi người, nhiều lần xuống khỏi lưng lừa xin đức phu quân Giuse chia sẻ tiện nghi để giảm bớt vất vả dọc đường. Nhưng thánh Giuse không bao giờ nhận đề nghị này. Tuy nhiên để đưa ra điều gì đáp lại đề nghị của Đức Maria, thánh phu quân đồng ý để Người thỉnh thoảng cùng đi bộ với ngài một khoảng đường. Nhưng chỉ mới đi bộ được một khoảng ngắn, thánh phu quân, với hết lòng khiêm tốn kính trọng, đã yêu cầu Đức Maria chấp nhận giảm bớt mệt nhọc. Bằng những cử chỉ khiêm tốn tế nhị lịch sự như thế, Đức Maria và thánh Giuse tiếp tục hành trình. Chỉ có nhị vị giong ruổi trên đường; nhưng có cả ngàn thiên thần hộ vệ. Thỉnh thoảng Người nói chuyện với các thiên thần, đổi phiên với các ngài, hát ca chúc tụng các kỳ công tạo dựng, các mầu nhiệm của Thiên Chúa và Ngôi Lời Nhập Thể. Do đó trái tim tinh tuyền của Đức Trinh Nữ vô nhiễm nguyên tội luôn bừng bừng cháy lửa yêu mến Thiên Chúa. Thánh phu quân Giuse chia sẻ các việc này bằng cách im lặng, để cho Đức Maria theo đuổi những bay bổng của linh hồn. Do liên tục chiêm niệm, thánh Giuse được hưởng một vài hiểu biết về những gì đang xảy ra trong linh hồn Đức Maria. Sau bốn ngày giong ruổi, Đức Maria và thánh phu quân tới thị trấn Juda, nơi thánh Zacharia và Elisabeth cư ngụ. Để thông báo các ngài tới thăm, thánh Giuse vội vàng đi trước. Tới nơi, ngài lên tiếng chào: “Thiên Chúa ở với mọi người và đổ tràn đầy linh hồn mọi người hồng ân Chúa.” Thánh Elisabeth được Thiên Chúa cho biết trong thị kiến rằng Đức Maria thành Nazareth đã lên đường tới thăm bà. Trong thị kiến này bà được cho biết Đức Nữ Vương thiên đàng được sủng ái nhất trước nhan thánh Đấng Tối Cao. Nhưng mãi tới khi đôi bạn dì chào nhau trong phòng riêng, mầu nhiệm Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa mới được tiết lộ cho bà. Bà Elisabeth cùng với một vài gia nhân đi ra đón Đức Maria. Vì khiêm tốn và trẻ tuổi hơn, Đức Maria đã mau mắn chào bà chị họ: “Thiên Chúa ở với hiền tỉ, người chị họ thân mến nhất của em.” Thánh Elisabeth đáp lời: “Xin Thiên Chúa thưởng cho Hiền Muội vì Hiền Muội đã đem tới cho tôi sự hoan hỉ này,” và mọi người đi vào trong nhà. Sau lời đầu tiên chào hỏi, đôi bạn dì lui vào phòng cầu nguyện của bà Elisabeth để chuyện vãn riêng. Lập tức Đức Hiền Mẫu chào mừng bà Elisabeth: “Xin Thiên Chúa bảo vệ hiền tỉ, hiền tỉ thân mến nhất của em, xin Ánh Sáng Thần Linh Chúa ban cho hiền tỉ ân sủng và sự sống” (Lc 1:40). Khi nghe âm thanh lời Đức Maria, bà Elisabeth được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần. Bà vui mừng, vì chỉ trong giây lát bà nhìn nhận ra được những mầu nhiệm cao quí nhất. Những cảm động này và những ơn thai nhi Gioan đồng thời cảm thấy trong lòng mẹ, đều do sự hiện diện của Ngôi Lời nhập thể nơi lòng dạ Đức Maria. Sử dụng âm thanh lời Mẹ Maria làm phương tiện, Chúa Cứu Thế khởi sự từ nơi lòng Mẹ dùng quyền lực Thiên Chúa Cha để cứu độ và bào chữa cho các linh hồn. Lúc này Ngôi Lời hoạt động như một người, mặc dầu chỉ với tầm vóc hết sức nhỏ bé của bào thai mới được tám ngày. Với lòng khiêm tốn đáng ca ngợi, Ngôi Lời nhập thể mang hình thức và tư thế một người đang cầu nguyện nài xin Thiên Chúa Cha. Chúa Cứu Thế tha thiết cầu xin việc tha tội nguyên tổ cho Vị Tiền Hô tương lai và đã được Thiên Chúa Cha thuận ban. Cùng lúc đó bà Elisabeth cũng nhận được chỉ dẫn về mầu nhiệm Nhập Thể, việc thánh hoá con bà và mục đích nhiệm mầu của việc tuyệt vời lạ lùng này. Thánh Elisabeth cũng ý thức được sự trong trắng trinh khiết và địa vị Đức Maria. Lúc này, Đức Nữ Vương thiên đàng chìm đắm trong thị kiến Thiên Chúa và các mầu nhiệm Thiên Chúa thực hiện qua Con cực thánh. Đức Maria trở nên hoàn toàn giống Thiên Chúa, chan hòa ánh sáng rực rỡ của ân sủng mà Người chia sẻ; bà Elisabeth nhìn thấy Người trong ánh sáng huy hoàng. Hết sức ngỡ ngàng vì những điều mắt thấy tai nghe liên quan các mầu nhiệm cao cả này, bà Elisabeth chìm đắm trong niềm vui ơn Chúa Thánh Thần. Khi nhìn Đức Nữ Vương trời đất và Đấng ngự trong lòng Người, bà Elisabeth lớn tiếng ca ngợi, nói lên những lời được thánh Luca ghi lại: “Hiền Muội có phúc hơn mọi phụ nữ và Con của lòng Hiền Muội gồm phúc lạ. Do đâu tôi được ơn trọng đại này là Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì ngay khi lời Hiền Muội chào tới tai tôi, con trẻ trong lòng tôi cử động vui mừng. Hiền Muội thật diễm phúc, vì đã tin Thiên Chúa sẽ thực hiện những điều Ngài đã nói với Hiền Muội” (Lc 1:42-45). Bằng những lời này, bà Elisabeth nhắc lại các đặc quyền cao quí của Đức Maria, nhờ Thiên Chúa soi sáng, bà thấy những gì Thiên Chúa đã làm trong Đức Maria, các việc Thiên Chúa làm lúc này, và những việc sẽ thực hiện trong thời gian sắp tới. Thai nhi Gioan cũng thấy và hiểu các điều này trong khi nghe lời bà mẹ nói vì bà được soi sáng nhằm mục đích thánh hóa Gioan. Vì Gioan không thể từ nơi đang ở trong lòng mẹ chúc tụng tạ ơn Đức Maria bằng lời nói, bà Elisabeth, cả cho bà và thay cho con, ca tụng Đức Maria, Người là máng đưa hồng phúc tới cho hai mẹ con. Những lời ca ngợi mà thánh Elisabeth nói ra được Thánh Mẫu khôn ngoan khiêm nhượng chuyển dâng lên Đấng Tạo Hoá; bằng giọng ngọt ngào dịu dàng nhất, Đức Maria hát lên bài ca Tạ Ân Magnificat như thánh Luca ghi lại (Lc 1:46-55): “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa; thần trí tôi reo mừng trong Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi. Ngài đã đoái nhìn đến phận hèn nữ tì (của Ngài), từ đây đến muôn đời mọi thế hệ sẽ khen tôi có phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả, Danh Ngài chí thánh chí tôn! Lòng thương xót của Chúa trải qua đời nọ đến đời kia cho những kẻ kính sợ Ngài. Chúa tỏ quyền lực (của Ngài) dẹp tan lũ kiêu căng. Chúa hạ bệ kẻ quyền thế cao sang và nâng cao người khiêm nhượng. Chúa cho người đói nghèo dư đầy, và đuổi kẻ giàu có đi tay không. Chúa đã cứu dân Israel, tôi tớ Ngài, vì (Ngài) nhớ lại lòng thương xót đã dành cho tổ phụ Abraham và con cháu (của) ông đến muôn đời.” Chính thánh Elisabeth là người đầu tiên nghe bài ca chúc tụng ngọt ngào này từ miệng Đức Maria. Bà cũng là người đầu tiên hiểu ý nghĩa bài ca Chúc Tụng Tạ Ân; nhờ sự hiểu biết được ơn trên ban xuống, bà đã bình luận kinh Magnificat. Linh hồn Đức Maria chúc tụng Thiên Chúa vì sự siêu việt của Bản Chất vô cùng. Đức Hiền Mẫu dâng lên và nhường mọi vinh quang chúc tụng cho Thiên Chúa (1 Tim. 1:17), cả lúc khởi đầu và khi hoàn thành các công việc của Ngài. Đức Maria nhìn nhận tuyên xưng rằng mọi thụ tạo chỉ được vinh quang vui mừng ở nơi Thiên Chúa mà thôi, vì chỉ một mình Thiên Chúa là toàn thể hạnh phúc và ơn cứu độ họ (2 Cor. 10:17). Đức Maria tuyên xưng Đức Công Chính, sự huy hoàng của Đấng Tối Cao khi đoái nhìn những kẻ khiêm tốn, ban cho họ dư dật tình thương (Tv 137:6). Đức Maria cũng thấy nhân loại hết sức hạnh phúc vì thấy, hiểu và suy nghĩ về những hồng ân được ban xuống cho sự khiêm tốn của Người, Đấng muôn dân sẽ gọi là “Diễm Phúc”; mọi người khiêm nhượng, tùy theo trình độ, có thể chia sẻ niềm hạnh phúc đó. Bằng một lời Đức Maria cũng diễn tả lòng thương xót, ân sủng Thiên Chúa Toàn Năng đổ tràn xuống cho Người vì thánh danh tuyệt vời của Chúa. Đức Maria gọi chung tất cả mọi việc Thiên Chúa làm cho Người là “những điều cao cả” vì không có điều gì nhỏ mọn trong mọi sự được Thiên Chúa thể hiện cho Người. Lòng thương xót của Đấng Tối Cao chảy tràn qua sự sung mãn của Đức Maria tới toàn thể nhân loại, vì Người là Cửa Thiên Đàng, qua cửa đó nhân loại sinh ra, tiếp tục sinh ra; qua cửa đó nhân loại được vào tham dự phần Thiên Tính. Đức Maria tuyên xưng rằng lòng thương xót Thiên Chúa dành cho Người sẽ được phân phát qua mọi thế hệ, tự nó truyền thông với những người kính sợ Thiên Chúa. Lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa nâng người khiêm tốn lên, tìm kiếm những người kính sợ Chúa. Công lý uy quyền của Thiên Chúa xua đuổi, tiêu diệt những kẻ kiêu ngạo, truất chúng khỏi địa vị của chúng, thay vào đó bằng những kẻ thanh bần khiêm tốn. Đức công thẳng Thiên Chúa đã được thi hành cách huy hoàng và vinh quang tuyệt vời đối với tên chúa trùm kiêu ngạo, Lucifer, và đồng bọn của nó, khi cánh tay toàn năng Thiên Chúa xua đuổi, truất chúng xuống khỏi những địa vị cao sang và ân sủng dành cho chúng theo quyết định ban đầu do tình thương của Thiên Chúa (Is. 14; Kh 12). Từ nguyên thủy, vì yêu thương, Thiên Chúa đã định rằng tất cả mọi thụ tạo đều được chúc phúc (1 Tim. 2:4). Nhưng các phản thần, vì kiêu ngạo muốn leo lên những địa vị mà chúng không thể nào đạt tới hoặc hy vọng tới, đã bị xua đuổi truất khỏi địa vị nguyên thủy dành cho chúng (Is. 14:13). Thánh Elisabeth xin Đức Maria nhận, làm chỗ nghỉ yên tĩnh, căn phòng bà thường dùng khi cầu nguyện, rất thoải mái, thích hợp cho việc cầu nguyện. Công Chúa thiên đàng khiêm tốn cám ơn thánh Elisabeth. Người dùng căn phòng này để tĩnh tâm, nghỉ ngơi, không một ai bước vào căn phòng này, ngoại trừ Đôi Bạn Dì. Những ngày còn lại, Đức Maria tình nguyện giúp đỡ thánh Elisabeth như một nữ tì, vì đây cũng là mục đích việc Đức Maria tới thăm và an ủi bà. Tình tỉ muội hết sức chân thành, hết sức ngọt ngào và bất phân ly, vì tình thân ái đó được tạo thành do dây liên kết gắn bó cao cả của tình yêu Thiên Chúa! Thiên Chúa đáng ca tụng chừng nào trong việc làm tỏ hiện nhiệm tích vô cùng vĩ đại của việc Ngôi Lời Nhập Thể cho ba vị Phụ Nữ trước khi tỏ lộ điều đó cho bất cứ người nào khác trong nhân loại! Vị thứ nhất là thánh mẫu Anna, vị thứ hai là Ái Nữ của thánh Anna và là Mẹ Ngôi Lời, Đức Maria rất thánh, vị thứ ba là thánh Elisabeth, và cùng với bà là con của bà, vì khi đó người con này còn ở trong lòng bà, không thể được coi là tách riêng khỏi bà. Như thế, theo lời thánh Phaolô: “sự khùng dại của Thiên Chúa thì hơn sự khôn ngoan của loài người.” Sau khi chuyện trò khá lâu, Đức Maria và thánh Elisabeth rời khỏi phòng tĩnh tâm khi màn đêm xuống. Đức Nữ Vương thấy thánh Zacharia đứng trước mặt Người nhưng ngài câm không nói được. Đức Maria xin vị tư tế của Thiên Chúa chúc lành, thánh Zacharia đã chúc lành cho Người. Mặc dù Đức Maria hết sức thương xót thánh Zacharia vì sự đau khổ của ngài, nhưng Người không dùng quyền lực của mình để chữa ngài, mà chỉ cầu nguyện cho ngài, vì Người biết bí mật về việc ngài bị câm. Thánh Elisabeth, biết được hạnh phúc cao cả của thánh Giuse, đức phu quân trinh khiết của Đức Maria, mặc dầu chính thánh Giuse cho tới lúc này chưa biết được điều đó, đã tiếp đãi phục vụ thánh nhân cách kính trọng quí mến đặc biệt. Sau khi đã lưu lại nhà thánh Zacharia ba ngày, thánh Giuse xin Đức Maria để ngài trở lại Nazareth; và Đức Maria ở lại giúp đỡ thánh Elisabeth trong khi bà thai nghén. Thánh Elisabeth tặng thánh Giuse một số quà để ngài đem về, nhưng ngài chỉ nhận một phần vì nhân nhượng lời nài nỉ nồng nhiệt của mọi người. Thánh Giuse không những chỉ yêu mến Đức Khó Nghèo, mà cũng có trái tim đại lượng cao quí. Ngài trở về Nazareth, đem theo con lừa các ngài đã dùng khi tới nhà thánh Zacharia. Về tới nhà, vì vắng hiền thê, thánh Giuse được một phụ nữ láng diềng và cũng là họ hàng giúp đỡ. Bà này, khi Đức Maria ở nhà, thường tới lui giúp những việc lặt vặt bên ngoài. Đúng theo lời chỉ dẫn và mệnh lệnh mới của Đấng Tối Cao, Công Chúa thiên đàng trông coi mọi việc trong nhà bà chị họ Elisabeth. Đức Maria chỗi dậy lúc nửa đêm như thường lệ, dành nhiều tiếng đồng hồ suy gẫm các mầu nhiệm Thiên Chúa và sắp đặt giờ ngủ lúc thức dậy hết sức hoàn hảo, hoàn toàn phù hợp với điều kiện tự nhiên cơ thể Người. Khi làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi, Đức Maria tiếp tục nhận được những đặc ân, những dẫn giải tường tận, lời khen ngợi, những an ủi vỗ về từ Thiên Chúa. Suốt ba tháng này, Đức Maria được nhiều thị kiến Thiên Chúa, thuộc loại cao siêu bí nhiệm nhất. Vẫn thường xảy ra hơn cả là những thị kiến về nhân tính cực thánh của Ngôi Lời kết hợp với Thiên Tính, vì lòng dạ trinh khiết Đức Maria cưu mang Ngôi Lời nhập thể phục vụ như bàn thờ và đền thờ thường trực của Chúa. Đức Maria nhìn thấy mỗi ngày sự tăng trưởng của thân xác cực thánh đó. Do việc sống thực này và nhờ những bí tích mỗi ngày được tỏ hiện cho Người trong sự cao cả vô biên của quyền năng và bản tính Thiên Chúa, tinh thần Đức Nữ Vương cao cả đã mở rộng mênh mông. Nhiều lần Đức Maria hầu như bị tan biến và chết vì sức mạnh phi thường của lòng yêu mến, nếu không được Thiên Chúa bảo vệ. Đức Maria đã thêm những công việc mà sự giúp đỡ và an ủi thánh Elisabeth đòi hỏi vào những hoạt động thiêng liêng của Người. Sau khi hoàn tất các việc này, Người lập tức trở về với việc tĩnh tâm để có thể tự do trút hết tâm tư ra trước thánh nhan Thiên Chúa. Vị Tiền Hô quá sức may phước được chính Đức Nữ Vương cao cả đích thân chuẩn bị tã lót cho. Bà Elisabeth đã lo lắng ân cần khiêm tốn xin Đức Nữ Vương thiên đàng cho thánh Gioan Tẩy Giả được đặc ân này. Đức Maria, trội vượt trên hết mọi người về lòng khiêm tốn yêu mến tuân phục, đã đáp ứng điều thánh Elisabeth yêu cầu. Bằng cách này Đức Maria thực hành giáo lý của Ngôi Lời hằng hữu, Đấng đã hạ mình thẳm sâu, đến mức, tuy đồng bản thể, đồng quyền năng và là hình ảnh Thiên Chúa Cha, là Thiên Chúa thực bởi Thiên Chúa thực, Ngài đã mang thân xác và thân phận tôi đòi (Dt 1:3, Phil 2:6-7). Đức Maria rất thánh là Mẹ Thiên Chúa, Nữ Vương mọi thụ tạo, địa vị tuyệt vời trên hết mọi thụ tạo trên trời dưới đất, vẫn duy trì thân phận nô tì khiêm tốn của thụ tạo thấp hèn nhất trong mọi thụ tạo; không bao giờ chấp nhận sự kính trọng và phục vụ phải được dành cho Người, cũng không bao giờ tự đề cao, hoặc không cư xử cách khiêm nhu nhất. Giờ sao mai mọc, sao mai xuất hiện trước khi Mặt Trời Công Chính đến và loan báo ngày của Luật Ân Sủng từ lâu mong đợi đã tới (Gioan 5:35). Thời điểm thích hợp để Đấng Tối Cao cho Tiên Tri của Ngài xuất hiện giữa thế gian, đó là Gioan Tẩy Giả, người đã dùng ngón tay mình mà chỉ rõ Chiên Thiên Chúa (Gioan 1:29), có nhiệm vụ chuẩn bị nhân loại đón nhận Ơn Cứu Độ và thánh hoá thế gian. Trước khi sinh ra khỏi lòng mẹ, con trẻ diễm phúc này được Thiên Chúa tiết lộ cho biết thời điểm Vị Tiền Hô phải khởi sự công việc ở giữa thế gian. Trẻ Gioan sử dụng được lý trí hoàn toàn, và sự khôn ngoan được Thiên Chúa trút vào tâm trí do sự hiện diện của Ngôi Lời Nhập Thể. Vì thế Gioan biết mình phải đến vùng đất bị nguyền rủa đầy nguy hiểm, phải bước đi trong thế giới đầy ác độc cạm bẫy, nơi nhiều người sa vào hủy diệt trầm luân. Do lời thánh Elisabeth yêu cầu, Đức Maria đón lấy từ trẻ sơ sinh và dâng hy lễ mới lên Thiên Chúa Cha hằng hữu. Thiên Chúa, rất hài lòng, đã nhận như trái đầu mùa của Ngôi Lời Nhập Thể và thánh ý. Hài nhi tốt phước nhất này, tràn đầy ơn Chúa Thánh Linh, nhận biết Đức Nữ Vương cao cả. Đồng thời lần nữa Gioan sơ sinh thờ lạy Ngôi Lời Thiên Chúa từ nơi lòng Thánh Mẫu hiện ra rõ ràng với Gioan do ánh sáng đặc biệt. Nhờ biết mình được đặc ân trước hết thảy mọi người trong nhân loại, hài nhi Gioan đã thực hành việc tạ ân sốt sắng, lòng khiêm tốn, mến yêu, tôn kính đối với Thiên Chúa và Đức Trinh Mẫu. Đức Nữ Vương thiên đàng, khi dâng hài nhi Gioan lên Thiên Chúa Cha hằng hữu, đã cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa và là Cha Tối Cao, toàn thánh thiện và quyền năng, xin chấp nhận trong vinh danh Chúa lễ vật hoa trái đầu mùa của Con cực thánh Chúa và là Chúa của con. Con trẻ này được Con Một Yêu Dấu Cha thánh hóa, cứu khỏi mọi tì vết tội lỗi và khỏi mọi quyền lực của kẻ thù muôn đời của Cha. Xin nhận của lễ dâng ban sáng này, xin trút đầy lòng trẻ thơ này mọi ân sủng Thánh Linh Chúa, để hài nhi này sẽ là tôi tớ trung thành của Chúa và Con Một Yêu Dấu Chúa.” Lời Đức Maria cầu nguyện có hiệu lực về mọi phương diện, Người thấy Thiên Chúa làm cho hài nhi Gioan được giầu có ân sủng, chọn làm Tiền Hô của Ngài; và Đức Maria cũng cảm nhận trong chính Người hiệu lực những ân sủng lạ lùng này. Sau đó mọi người bàn việc xếp đặt nghi lễ cắt bì cho con trẻ, vì thời gian theo luật ấn định đã gần tới. Theo tập tục Do thái, đặc biệt đối với những người danh tiếng, nhiều thân nhân và bằng hữu trong gia đình Zacharia bắt đầu tới để quyết định đặt tên cho con trẻ. Thêm vào với những chuẩn bị và tham khảo thông thường liên quan đến tên đặt cho một con trai, địa vị cao sang của thánh Zacharia và Elisabeth, tin tức về việc sinh con lạ lùng này tự nhiên gợi ra trong trí mọi thân nhân mầu nhiệm cao cả nào đó. Thánh Zacharia vẫn còn bị câm, dĩ nhiên thánh Elisabeth phải chủ toạ cuộc họp này. Mọi thân nhân và bằng hữu thấy nơi thánh Elisabeth những dấu chỉ rõ ràng về sự đổi mới và thánh hóa đặc biệt, mà những điều này chính là do sự hiểu biết về các mầu nhiệm nhờ chuyện vãn với Đức Nữ Vương thiên đàng. Gương mặt bà biểu lộ niềm hân hoan rực rỡ làm cho bà trở nên hấp dẫn cách huyền nhiệm và phản ảnh Thiên Chúa Tối Cao, vì bà đang ở trước thánh nhan Ngài. Vì không nói được, thánh Zacharia ra dấu yêu cầu đưa cho ông cây viết và cho biết ý kiến của mình bằng cách viết trên tấm bảng nhỏ: “Tên cháu là Gioan” (Lc 1:63). Đồng thời Đức Maria, dùng quyền lực của Người trên mọi thụ tạo tự nhiên, truyền cho tình trạng cấm khẩu rời khỏi thánh Zacharia để lưỡi ngài được tự do, vì đã đến lúc phải chúc tụng Thiên Chúa. Với lệnh truyền này, thánh Zacharia thoát khỏi hình phạt đau khổ, trước sự ngạc nhiên và sợ hãi của mọi người, ngài bắt đầu nói, như Thánh Sử kể lại. Những điều được kể ở đây không trái với lời tường thuật trong Phúc Âm về biến cố này, vì Thiên Chúa khôn ngoan vô cùng, khi tiết lộ bất cứ điều nào thuộc thánh ý Ngài, không luôn luôn tiết lộ phương tiện hoặc cách chu toàn việc đó. Do đó Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel báo cho thánh Zacharia hình phạt vì sự không tin của ông, thiên sứ không cho biết ông sẽ được cứu khỏi hình phạt đó nhờ lời cầu bầu của Đức Maria, mặc dầu việc này đã được định sẵn. Âm thanh lời Đức Maria là dụng cụ thánh hoá thai nhi Gioan và bà mẹ. Cũng vậy, lệnh truyền và lời cầu bầu âm thầm của Người có hiệu lực giải phóng lưỡi thánh Zacharia, trút vào linh hồn ngài tràn đầy Ơn Thánh Linh và ơn nói tiên tri. Do đó ngài nói lên những lời (Lc. 1: 68-79): “Chúc tụng Thiên Chúa Israel; vì (Ngài) đã viếng thăm và thi hành ơn cứu độ dân Ngài: Ngài đã ban Đấng Cứu Độ toàn năng cho chúng tôi, trong nhà David tôi tớ Ngài: Từ xưa, qua lời các tiên tri Chúa đã hứa ban Đấng từ nguyên thủy; Là Ơn Cứu Chuộc chúng tôi khỏi mọi kẻ thù, và khỏi tay những kẻ thù ghét chúng tôi: Thực thi lòng thương xót đối với tổ tiên chúng tôi, và nhớ lại thánh ước của mình, Ngài sẽ ban cho chúng tôi điều Ngài đã hứa với Abraham tổ phụ chúng tôi, Ngài cứu chúng tôi khỏi tay kẻ thù chúng tôi để chúng tôi an tâm phụng thờ Ngài, Giữ lòng thánh thiện và công chính trước nhan thánh Ngài suốt đời chúng tôi. Còn con, hỡi con, con sẽ được gọi là tiên tri của Đấng Tối Cao: vì con sẽ đi trước dọn đường Chúa: Làm cho mọi người biết Ơn Cứu Độ: đến để chuộc tội lỗi muôn dân: Do lòng thương xót của Chúa, Đấng là Bình Minh sẽ đến thăm viếng chúng ta: Soi sáng kẻ ngồi trong bóng tối và dưới bóng sự chết: dẫn chúng ta trên đường an bình.” Trong thánh vịnh của thánh Zacharia gói ghém mọi mầu nhiệm cao cả nhất các tiên tri đã nói trước cách cao siêu liên quan đến Thiên Tính, nhân tính, Công Cuộc Cứu Độ của Chúa Cứu Thế. Ngài cũng hiểu các mầu nhiệm này do ân sủng và ánh sáng được đổ đầy tâm hồn ngài, mà mọi người tới dự lễ cắt bì cho con trai Gioan đều nhận thấy. Tất cả những người này đều chứng kiến việc ông được làm cho khỏi câm và những lời tiên tri ông nói ra. Không thể nào giải thích ý nghĩa sâu xa những lời tiên tri này, như hiện ra trong trí vị tư tế thánh thiện Zacharia. Khi được thánh Elisabeth báo tin, thánh phu quân Giuse tốt phước nhất trong mọi người đã tới đón Đức Maria rất thánh trở lại Nazareth. Ngài được ông Zacharia và bà Elisabeth đón tiếp cách kính trọng tận tình; vì lúc này ông Zacharia cũng biết rằng thánh phu quân là đấng bảo vệ những kho tàng huyền nhiệm thiên đàng, mặc dầu chính thánh Giuse vẫn chưa biết. Thánh Giuse được hiền thê thiên đàng đón tiếp hết sức khiêm tốn và vui mừng. Đức Maria, như thường lệ, quì trước mặt ngài xin chúc lành, và cũng xin tha lỗi, vì đã không hầu hạ ngài suốt gần ba tháng trong khi ở lại giúp đỡ bà chị họ Elisabeth. Mặc dầu Đức Maria không có lỗi gì, cũng không có đến một chút bất toàn nào trong việc tận hiến chu toàn thánh ý Thiên Chúa theo đúng những ước nguyện của phu quân, nhưng qua cách đối xử lịch sự và hành động khiêm nhượng thân mật này, Người muốn đền bù cho đức phu quân sự thiếu vắng đồng hành đầy an ủi của Người. Thánh Giuse nói bây giờ ngài được nhìn thấy Người và lại được hiện diện hạnh phúc bên Người, ngài đã hết đau khổ vì vắng bóng hiền thê. Sau vài ngày, Đức Maria và thánh Giuse thông báo ngày ra về. Đến ngày đó, Công Chúa Maria từ biệt thầy cả Zacharia và gia đình. Vì thánh Zacharia được Thiên Chúa soi cho biết địa vị cao cả của Đức Trinh Mẫu, ngài nói với Đức Maria cách tôn kính quí trọng đối với cung điện sống của Thiên Chúa và nhân tính Ngôi Lời hằng hữu. Vị tư tế nói: “Thưa Bà Chúa của tôi, hãy ca ngợi và chúc tụng Đấng Tạo Hóa của Bà, Đấng mà do lòng thương xót vô biên đã chọn Bà trong mọi thụ tạo để làm Mẹ Ngài, là Đấng Quản Thủ duy nhất mọi hồng ân và bí tích của Ngài. Xin nhớ đến tôi, tôi tớ của Bà, trước thánh nhan Thiên Chúa, để xin Ngài hướng dẫn tôi qua chốn lưu đầy này an toàn tới nơi của sự an bình vĩnh cửu mà chúng tôi ngưỡng vọng, và nhờ Bà tôi có thể được xứng đáng nhìn thấy Thánh Tính của Ngài, đó là vinh quang các thánh. Xin Bà cũng nhớ, căn nhà và gia đình tôi, nhất là Gioan con tôi. Xin cầu bầu với Đấng Tối Cao cho dân Bà.” Mọi người trong nhà thánh Zacharia đã được thánh hoá nhờ sự hiện diện của Đức Maria và Ngôi Lời nhập thể nơi lòng dạ Người. Mọi người trong nhà đó được cảm hoá, được hướng dẫn nhờ mọi lời nói và chỉ dạy, được ảnh hưởng ngọt ngào nhờ sự giao tiếp, cách cư xử vô cùng khiêm tốn của Người. Trong khi lôi kéo đến với mình mọi con tim trong gia đình phúc đức đó, Đức Maria cũng làm cho họ được xứng đáng và xin được từ nơi Con cực thánh cho họ muôn vàn ân sủng. Thánh Giuse được tư tế Zacharia và bà Elisabeth đặc biệt kính trọng, vì ông bà biết địa vị ngài cao cả. Vị Thánh Tổ đầy ơn phúc, hạnh phúc với Kho Tàng vô cùng cao quí mà ngài chưa biết toàn thể giá trị vô cùng quí báu, từ biệt mọi người để đi về Nazareth. LỜI MẸ MARIA Con của Mẹ, có hai lý do mà những hiệu lực Con Mẹ thực hiện cho thánh Gioan và Elisabeth được giấu kín, trong khi đó các ơn ban cho thánh Zacharia lại được làm cho hiển hiện. Thứ nhất, vì thánh Elisabeth nói ra rõ ràng ca tụng Ngôi Lời nhập thể và ca tụng Mẹ. Nhưng chưa tới thời điểm thích hợp để mầu nhiệm này cũng như địa vị của Mẹ được cho mọi người biết, việc Chúa Cứu Thế đến phải được làm sáng tỏ bằng những phương thế thích hợp hơn. Thứ hai, không phải mọi con tim đều đã được chuẩn bị kỹ càng như thánh Elisabeth để đón nhận hạt giống quí báu vô tiền khoáng hậu của ơn hiểu biết cao siêu như thế, họ cũng không đón tiếp điều mạc khải mầu nhiệm với lòng tôn kính xứng hợp phải có. Mặt khác, thiệt là thích đáng để thánh Zacharia, với tư cách là tư tế, phải tuyên xưng những gì mà tới lúc đó ngài được cho biết. Những khởi đầu của ánh sáng thiên đàng có thể được thánh Zacharia đón nhận dễ dàng hơn thánh Elisabeth. Điều thánh Elisabeth nói được dành để đem lại hiệu lực vào thời điểm thích hợp. Mặc dầu lời Chúa có hiệu lực tự nhiên; nhưng lời Chúa, qua các linh mục hoặc tư tế truyền đạt, được mọi người hiểu và chấp nhận dễ dàng hơn. Vả lại điều rất chính đáng là địa vị và danh dự của chức tư tế phải được tôn trọng xứng hợp. Đấng Tối Cao coi trọng các linh mục, muốn thấy các ngài được đặt đúng địa vị. Thiên Chúa chúc phúc và ban cho các linh mục Ơn Thánh Linh để thế gian phải kính trọng các ngài vì là những người được chọn và được xức dầu. Hơn nữa những sự lạ lùng của Chúa đến với các linh mục thì an toàn hơn, cho dù những điều đó được tiết lộ cho các ngài cách công khai hơn. Gương mặt các linh mục phải sáng láng, như mặt ông Maisen khi từ cuộc hội ngộ với Thiên Chúa trở về (Xh 34:29). Các linh mục phải cư xử và được đối xử theo cách các ngài phải được tôn kính chỉ sau Thiên Chúa. Con yêu quí của Mẹ, Mẹ muốn con hiểu Thiên Chúa giận thế giới vì cách đối xử bất kính đối với các linh mục; Ngài giận các linh mục cũng như giận người đời. Chúa giận các linh mục vì các ngài quên địa vị cao quí của mình, tự hạ thấp phẩm giá bằng cuộc sống mất phẩm giá ô nhục, làm gương xấu cho người đời do việc đồng hóa với thế giới, chểnh mảng thánh hóa bản thân. Thiên Chúa giận người đời, vì họ hoạt động với lòng tự phụ kiêu căng khả ố dại dột đối với những người được Thiên Chúa xức dầu, mà những vị này, dù bất toàn và lỗi lầm trong cuộc sống riêng tư, phải được kính trọng vì thay mặt Chúa Kitô, Con của Mẹ, ở trần gian. Từ lời Mẹ chỉ dạy hôm nay, con hãy học tìm kiếm cách đặc biệt sự hướng dẫn trên đường nhân đức và đời sống vĩnh cửu trong tất cả các giao tiếp với mọi người, cho dù họ ở địa vị cao hơn hoặc thấp hơn con. Con hãy bắt chước Mẹ và bà chị họ Elisabeth của Mẹ, với lòng dè dặt thận trọng xin mọi người chỉ dạy hướng dẫn con. Để thưởng cho lòng khiêm tốn như thế, Thiên Chúa ban cho con lời khuyên dạy an toàn và ánh sáng siêu nhiên để thực thi lòng yêu mến nhân đức chân thành kín đáo của con. Con hãy xua đuổi đi, đừng để con bị ảnh hưởng bởi dẫu chỉ một hơi thở nhẹ nịnh hót, tránh những cuộc nói chuyện mà con phải nghe lời nịnh hót; vì những sự hài lòng giả dối đó chắc chắn che khuất ánh sáng, làm trí khôn bị lạc đường. Thiên Chúa rất ghen với những linh hồn, nhất là những linh hồn được Ngài yêu thương, đến nỗi Ngài lập tức quay mặt bỏ đi nếu những linh hồn đó tìm sự hài lòng nơi những lời ca tụng của người đời, tự tìm phần thưởng cho mình qua những lời nịnh hót. Vì do tính nhẹ dạ này, những linh hồn đó không còn đáng được hưởng ân sủng Chúa nữa. Không thể nào kết hợp trong linh hồn những lời thế gian nịnh bợ với sự vỗ về an ủi của Đấng Tối Cao được. Những an ủi của Chúa thì thành thực, thánh thiện, trinh trong, trường cửu; những vỗ về an ủi của Chúa làm cho khiêm tốn, thanh tẩy, làm cho an bình, soi sáng trái tim. Trái lại, những lời nịnh hót của người đời chỉ là hư không, thoáng qua, gỉa dối, dơ dáy, thốt ra từ miệng những kẻ dối trá (Tv 115:11). Bất cứ thứ gì lừa dối đều là việc làm của kẻ thù tức là của ma quỉ. |