|
Hỏi: Đâu
là lư do cho sự tồn tại của rất nhiều nghi lễ Thánh lễ hiện nay trong Giáo
Hội? Xin cha giúp giải thích nguồn gốc của nghi lễ khác nhau. Tại sao Giáo
Hội chấp nhận tất cả các sự khác nhau trong cử hành Thánh lễ? - N. A.,
Bangaluru, bang Karnataka, Ấn Độ.
Đáp: Mặc
dù một số người nghĩ rằng Giáo Hội Công Giáo chỉ có nghi lễ Latinh hay Rôma,
đây là một quan niệm sai lầm. Nghi lễ Rôma cho đến nay là lớn nhất và phổ
biến rộng răi nhất trên thế giới, nhưng Giáo Hội Công Giáo bao gồm 23 Giáo
Hội riêng biệt hoặc các nghi lễ riêng biệt. Theo Annuario Pontificio, có
khoảng 16,3 triệu người Công Giáo phương Đông.
Bộ Giáo luật của các Giáo Hội phương Đông định nghĩa "nghi lễ" như sau:
"Nghi lễ là di sản phụng vụ, thần học, thiêng liêng và kỷ luật, được phân
biệt theo văn hóa và hoàn cảnh lịch sử của người dân, t́m diễn tả trong mỗi
Giáo Hội tự trị lối sống đức tin của Giáo Hội ấy".
Do đó, "nghi lễ" không chỉ quan tâm đến phụng vụ của Giáo Hội, mà c̣n thần
học, đời sống thiêng liêng và luật lệ của nó. Trong một số trường hợp, nó
cũng có thể liên quan đến tính sắc tộc và ngôn ngữ nữa. V́ thế, nhiều thành
viên của các nghi lễ này thích nói về Giáo Hội hơn là nói về nghi lễ. Những
người khác nói rằng "Giáo Hội" đề cập đến mọi người, c̣n "nghi lễ" đề cập
đến di sản và gia sản tinh thần và văn hóa của họ.
Không phải tất cả trong số 23 Giáo Hội có một phụng vụ riêng biệt, hoặc chỉ
khác nhau trong ngôn ngữ sử dụng hoặc trong các truyền thống địa phương.
Theo truyền thống, có sáu gia đ́nh phụng vụ chính: Latinh, Alexandria,
Antiokia, Armenia, Canđê và Constantinople (đôi khi được gọi là Byzantine).
Nghi lễ Latinh là chủ yếu được h́nh thành bởi nghi lễ Rôma, được chia thành
một h́nh thức b́nh thường và một h́nh thức ngoại thường. Ngoài ra c̣n có một
số truyền thống phụng vụ Latinh khác, như Ambrosian (thường được cử hành ở
Tổng Giáo Phận Milan), Mozarabic (cử hành một cách hạn chế hơn ở Toledo, Tây
Ban Nha), và của thành phố Braga ở Bồ Đào Nha, vốn được cho phép trong giáo
phận này, nhưng không được sử dụng rộng răi. Một số nghi lễ khác, chẳng hạn
như nghi lễ của Giáo phận Lyon, Pháp, đă rơi vào quên lăng. Các nghi lễ cụ
thể của một số Ḍng tu, như Ḍng Anh Em Thuyết Giáo, dường như đang được sử
dụng trở lại, sau nhiều năm gián đoạn.
Phụng vụ Constantinople, hoặc Byzantine, được sử dụng bởi 14 Giáo Hội, phụng
vụ Alexandria được sử dụng bởi ba Giáo Hội, phụng vụ Antiokia được sử dụng
bởi ba Giáo Hội, phụng vụ Canđê được sử dụng bởi hai Giáo Hội, và phụng vụ
Armenia được sử dụng bởi một Giáo Hội.
Thật là khó khăn để truy nguyên nguồn gốc và lịch sử của mỗi Giáo Hội. Chúng
tôi có thể nói rằng các nghi lễ khác nhau được sinh ra từ nỗ lực của các dân
tộc khác nhau, để diễn tả một đức tin theo các đặc điểm và truyền thống
riêng biệt của họ trong ngôn ngữ, âm nhạc, văn chương và phong cách nghệ
thuật.
Nó cũng là hơi giống như thực tế rằng bốn Thánh Sử tŕnh bày cùng một Chúa
Kitô, nhưng mỗi vị có sắc thái đặc biệt, vốn cùng nhau đưa ra một h́nh ảnh
hoàn chỉnh hơn. Tuy nhiên, thay v́ mỗi giáo phận có phụng vụ riêng của ḿnh,
các khu vực khác nhau của thế giới cổ đại có xu hướng kết hợp lại xung quanh
phụng vụ của giáo phận, vốn được cho là có nguồn gốc tông đồ. Do đó Rôma đă
trở thành trung tâm của thế giới Latinh. Giáo Hội tại Alexandria, Ai Cập,
theo truyền thống được thành lập bởi Thánh Máccô, đă trở thành nguồn cảm
hứng cho Ethiopia. Giáo Hội Antiokia ở Syria, Ṭa đầu tiên của thánh Phêrô,
có các Kitô hữu nói nói tiếng Hi Lạp và tiếng Aramaic.
Một số người đă đi truyền giáo ở phương Đông, và phụng vụ được phát triển từ
truyền thống này đă trở thành Nghi lễ Canđê và Nghi lễ Syro-Malabar. Các tín
hữu Hi Lạp hướng về miền Tây, và tập tục của họ sau đó được pha trộn với các
thực hành của thủ đô Đế quốc Byzantine để h́nh thành các phụng vụ
Constantinople. Các nghi lễ Maronite và Armenia h́nh thành trễ hơn, và tổng
hợp nhiều truyền thống, cũng như giới thiệu nhiều yếu tố độc đáo từ di sản
riêng của họ.
Về sự hiệp thông của các Giáo Hội này trong Giáo Hội Công Giáo, một số đă
không bao giờ chính thức cắt đứt sự hiệp thông với Đức Giáo Hoàng, mặc dù họ
không liên lạc với Ngài trong nhiều thế kỷ, do thiếu thông tin hoặc thậm chí
kiến thức về sự tồn tại của các Giáo Hội khác. Các Giáo Hội khác trở về hiệp
thông sau một thời gian tách biệt ở nhiều giai đoạn khác nhau trong lịch sử,
thậm chí muộn hơn đến đầu thế kỷ XX.
Trong tiến tŕnh tái thống nhất này, một số người nghĩ rằng sự quay trở về
hiệp thông với Rôma có nghĩa là từ bỏ các truyền thống cổ xưa, và chọn áp
dụng nghi lễ Latinh. Đây không bao giờ là chính sách chính thức, và các Giáo
hoàng thường nh́n sự đa dạng như đề cao hơn là gây nguy hiểm cho sự hiệp
nhất. Lời kêu gọi hiệp nhất phụng vụ sau Công Đồng Trentô là trên hết tập
trung vào nghi lễ Roma, và không ảnh hưởng đến các Giáo Hội phương Đông.
Các Giáo hoàng thường nhắc lại sự đánh giá cao của các ngài về các món quà
đặc biệt của các Giáo Hội phương Đông, và xem đó như một món quà đích thực
cho Giáo Hội hoàn vũ.
Do đó, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XIV trong thông điệp Allatae sunt năm 1755,
nhắc lại một số hành động của các vị tiền nhiệm của ḿnh v́ lợi ích của các
Kitô hữu phương Đông:
”13. Thủ bản tiếng Hi Lạp, được xuất bản tại Benevento, chứa hai Tông hiến
của các Giáo hoàng Lêô X và Clement VII, vốn mạnh mẽ chỉ trích người Latinh
đối xử tàn tệ với người Hi Lạp do các thực hành mà Công Đồng Florence đă cho
phép họ: đặc biệt họ có thể cử hành Thánh lễ với bánh có men, họ có thể cưới
vợ trước khi được truyền Chức thánh, và vẫn sống với vợ sau khi được truyền
chức, và họ có thể cho trẻ em Rước lễ dưới hai h́nh. Khi Giáo hoàng Piô IV
ra sắc lệnh rằng người Hi Lạp sống ở các giáo phận Latinh nên thuộc quyền
của Giám mục Latinh, ngài nói thêm rằng “tuy nhiên, qua sắc lệnh này, chúng
tôi không nhằm mục đích rằng người Hi Lạp tự rút ra khỏi nghi lễ Hi Lạp của
họ, hoặc họ bị cản trở trong bất kỳ cách nào ở những nơi khác do Đấng Băn
quyền hoặc các vị khác” (Veteris Bullarii, tập 2, Hiến chế số 75, Romanus
Pontifex).
“14. Các biên niên sử của Giáo hoàng Grêgôriô XIII, được viết bởi Fr. Maffei
và in ở Rôma năm 1742, liên quan nhiều việc làm của các vị Giáo hoàng, nhằm
phục hồi người Copt và người Armenia với đức tin Công Giáo, mặc dù không
thành công. Nhưng sự quan tâm đặc biệt là lời nói của ngài liên quan đến
việc ngài thành lập ba trường đại học ở Rôma, để giáo dục sinh viên Hi Lạp,
Maronite, và Armenia, và ngài nói rơ rằng họ nên tiếp tục trong các nghi lễ
phương Đông của họ (in novo Bullario, tập 4, pt. 3, const. 63, và pt. 4,
const. 157 và 173).
"Một sự hiệp nhất long trọng của người Ruthenian với Ṭa Thánh đă được thực
hiện thời Giáo Hoàng Clement VIII. Sắc lệnh được chuẩn bị bởi các Tổng Giám
mục và Giám mục miền Ruthenia cho việc thực thi sự hiệp nhất này có điều
kiện sau đây: "Tuy nhiên, các nghi thức và nghi lễ của phụng vụ thánh và các
bí tích thánh, phải được duy tŕ và tuân giữ đầy đủ, phù hợp với tập quán
của Giáo Hội phương Đông; chỉ có những điểm này phải được sửa chữa, vốn là
một trở ngại cho sự hiệp nhất; tất cả mọi việc sẽ được thực hiện theo cách
thức cổ xưa, như chúng đă được làm từ lâu, khi có sự hiệp nhất".
"Ít lâu sau đó, một sự rối loạn bị gây ra bởi một tin đồn lan rộng rằng sự
hiệp nhất đă đặt dấu chấm hết cho tất cả các nghi lễ cũ mà người Ruthenia đă
tuân giữ trong cách hát thánh thi, cử hành Thánh Lễ, cử hành các bí tích, và
các nghi thức khác. Giáo hoàng Phaolô V, trong một đoản sắc được viết năm
1615 và in trong Thủ bản Hi Lạp, long trọng tuyên bố ư muốn của ngài như
sau: "Với điều kiện là các nghi lễ là không trái với sự thật và giáo huấn
của đức tin Công Giáo, và chúng không ngăn chặn sự hiệp thông với Giáo Hội
Rôma, Giáo Hội Rôma đă không và không có ư định, hiểu biết, hoặc ư muốn, để
loại bỏ hoặc phá hủy chúng bằng phương tiện sự hiệp nhất này; và điều này
không được nói ra và không được suy nghĩ; thay vào đó, các nghi lễ đă được
cho phép và ban cho các Giám mục và giáo sĩ Ruthenia bởi ḷng từ nhân tông
truyền".
Sau đó, đề cập đến các giáo sĩ Latinh cố gắng để bắt buộc người Công Giáo
phương Đông chọn nghi lễ Latinh, Đức Giáo Hoàng nói rất nghiêm khắc:
"21. Chúng tôi đă giải quyết việc chuyển từ nghi lễ Latinh sang nghi lễ Hy
Lạp. Các việc chuyển theo hướng ngược lại là không bị cấm như trước đây. Tuy
nhiên, một nhà truyền giáo hy vọng cho sự trở về của một nghi lễ Hi Lạp hay
phương Đông với sự hiệp nhất của Giáo Hội Công Giáo có thể không làm cho
ngài từ bỏ nghi lễ riêng của ḿnh. Điều này có thể gây ra thiệt hại lớn.
"Người Công Giáo Melkite thường tự muốn chuyển từ nghi lễ Hi Lạp sang nghi
lễ Latinh, nhưng họ đă bị cấm làm như vậy. Các nhà truyền giáo đă được cảnh
báo không thúc đẩy họ chuyển như thế. Việc cho phép làm như vậy đă được dành
cho quyết định riêng của Ṭa Thánh. Điều này là rơ ràng từ Tông Hiến của
chúng tôi Demandatam, 85, đoạn 35 (Bullarium, tập 1): 'Hơn nữa Chúng tôi rơ
ràng cấm tất cả người Công Giáo Melkite, đang sử dụng nghi lễ Hi Lạp, chuyển
sang nghi lễ Latinh. Chúng tôi ra lệnh nghiêm ngặt cho tất cả các nhà truyền
giáo không khuyến khích bất cứ ai vội vàng chuyển từ nghi lễ Hy Lạp sang
nghi lễ Latinh, thậm chí cũng không cho phép họ làm như vậy nếu họ muốn, mà
không có sự cho phép của Ṭa Thánh, với các h́nh phạt dưới đây và các h́nh
phạt khác được quyết định bởi Chúng tôi".
Trong số các h́nh phạt này, có:
"Bất kỳ nhà truyền giáo nghi lễ Latinh nào, dù là thuộc hàng giáo sĩ triều
hay giáo sĩ Ḍng, v́ dẫn dụ với lời tư vấn hoặc hỗ trợ bất kỳ tín hữu nghi
lễ phương Đông nào chuyển qua nghi lễ Latinh, sẽ bị cách chức và bị loại
khỏi sứ vụ của ḿnh, ngoài đương nhiên lập tức (ipso facto) bị treo chén và
h́nh phạt khác, mà ông sẽ phải chịu, như được ghi trong Tông hiến
Demandatam".
Hơn một thế kỷ sau, trong tông hiến Orientalium Dignitas năm 1894, Đức Giáo
Hoàng Lêô XIII đă khẳng định rằng các h́nh phạt này vẫn c̣n hiệu lực. Ngài
cũng bày tỏ sự đánh giá cao của ḿnh đối với các Giáo Hội phương Đông:
"Các Giáo Hội ở phương Đông là xứng đáng với vinh quang và sự tôn kính, mà
họ nắm giữ trong suốt thời Kitô giáo do các tưởng niệm đặc biệt và rất cổ
xưa mà họ đă để lại cho chúng ta. V́ chính ở miền đất này của thế giới mà
các hành động đầu tiên cho sự cứu chuộc loài người bắt đầu, phù hợp với kế
hoạch toàn diện của Thiên Chúa. Họ nhanh chóng đưa ra kết quả to lớn của họ:
vinh quang của việc rao giảng Đức Tin chân thật cho các dân tộc, vinh quang
của việc tử đạo, và vinh quang thánh thiện đă trổ hoa trái đầu mùa. Họ đă
cho chúng ta các niềm
vui đầu tiên của hoa trái ơn cứu độ. Từ họ, đă xảy đến một lũ lớn và mạnh mẽ
lạ lùng của các lợi ích cho các dân tộc khác trên thế giới, dù xa xôi đến
đâu chăng nữa. Khi thánh Phêrô, hoàng tử của các Tông Đồ, dự định vất bỏ sự
xấu xa đa dạng của lỗi lầm và sai trái, phù hợp với ư muốn của Thiên đàng,
Ngài đem ánh sáng chân lư của Thiên Chúa, Tin Mừng của ḥa b́nh, tự do trong
Đức Kitô cho các thành thị của dân ngoại".
Ngài cũng tuyên bố:
"Việc duy tŕ sống nghi lễ phương Đông có tầm quan trọng hơn những ǵ người
ta có thể tưởng tượng. Thời cổ đại, vốn trao phẩm giá cho các nghi lễ khác
nhau này, là một trang sức của toàn thể Giáo Hội và làm chứng cho sự hiệp
nhất thiêng liêng của đức tin Công Giáo. Thật ra, có lẽ không có ǵ tốt hơn
để chứng tỏ dấu ấn Công Giáo tính trong Giáo Hội của Thiên Chúa, hơn là sự
kính trọng đặc biệt dành cho các nghi thức ấy, vốn khác nhau về h́nh thức,
được cử hành trong các ngôn ngữ đáng kính của thời cổ đại của họ, và chúng
vẫn tiếp tục thánh hóa bằng việc sử dụng được cho phép bởi các thánh Tông đồ
và các Giáo Phụ".
Nhân dịp mừng 1500 năm ngày sinh của Thánh Gioan Kim Khẩu (407-1907), Đức
Giáo Hoàng Piô X đă chủ sự một Thánh Lễ giáo hoàng long trọng bằng nghi lễ
Byzantine tại Vatican, vào ngày 12-2-1908. Trong bức thư của ḿnh về việc cử
hành lễ kỷ niệm này, Ngài đă viết: "Xin anh em phương Đông tách rời Chúng
tôi hăy nh́n và hiểu Chúng tôi coi trọng dường bao mọi nghi lễ như vậy”.
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV khẳng định thông điệp Dei Providentis năm 1917:
"Giáo Hội của Chúa Giêsu Kitô không phải là Latinh hay Hi Lạp hay Slav,
nhưng là Công Giáo; theo đó, Giáo Hội không tạo sự khác biệt giữa con cái
ḿnh và các thành viên Hi Lạp, Latinh, Slav, và các thành viên của tất cả
các quốc gia khác đều b́nh đẳng trong con mắt của Ṭa Thánh".
Đức Giáo Hoàng Piô XI đă có một sự tôn trọng tuyệt vời cho các nghi lễ
phương Đông và đă làm nhiều việc để củng cố chúng. Trong thông điệp
Ecclesiam Dei vào tháng 11-1923, được công bố vào dịp kỷ niệm 300 năm thánh
tử đạo cho sự hiệp nhất Công Giáo, Thánh Josaphat, Ngài viết: "Chúng ta sẽ
thấy tất cả các dân tộc, đến với nhau theo cách này, sở hữu các quyền tương
tự, bất cứ chủng tộc, ngôn ngữ hay phụng vụ của họ. Giáo Hội Rôma đă luôn
luôn cẩn trọng tôn trọng và duy tŕ các nghi lễ khác nhau, và luôn nhấn mạnh
đến sự bảo quản chúng".
Đức Giáo Hoàng Piô đă cử hành lễ mừng 1500 năm ngày sinh của Thánh Cyrillô
thành Alexandria, trong thông điệp Orientalis Ecclesiae năm 1944. Ngài nói:
"Mỗi một quốc gia nghi lễ phương Đông phải có tự do chính đáng của ḿnh
trong tất cả những ǵ gắn liền với lịch sử, tài năng và tính cách của nó,
luôn cứu sự thật và tính toàn vẹn của học thuyết về Chúa Giêsu Kitô. ... Họ
sẽ không bao giờ bị buộc phải từ bỏ các nghi lễ hợp pháp của ḿnh, hoặc trao
đổi các tập tục đáng kính hoặc truyền thống của họ với các nghi lễ và tập
tục Latinh. Tất cả đều được duy tŕ trong sự đánh giá và tôn trọng b́nh
đẳng, v́ họ tô điểm cho Mẹ Giáo Hội chung với chiếc áo hoàng gia nhiều màu
sắc. Thật vậy, sự đa dạng này của các nghi lễ và phong tục, bảo quản không
bị xâm phạm những ǵ là cổ xưa nhất và có giá trị nhất trong mỗi nghi lễ,
không cho thấy trở ngại nào cho sự hiệp nhất chân thật và chính đáng".
Công đồng chung Vatican II trong văn kiện Orientalium Ecclesiarum chỉ đạo
rằng các truyền thống của Giáo Hội Công Giáo phương Đông nên được duy tŕ.
Công đồng tuyên bố rằng:
"2…Thật ra, Giáo Hội Công Giáo muốn bảo toàn các truyền thống của từng Giáo
Hội riêng biệt hay các nghi lễ. Đồng thời Giáo Hội cũng muốn thích nghi nếp
sống của ḿnh với các nhu cầu khác nhau thuộc thời gian và nơi chốn…6…Mọi
giáo hữu Đông Phương nên ư thức và xác tín rằng ḿnh có thể và phải luôn
luôn tuân giữ các nghi thức phụng vụ hợp pháp và quy luật của ḿnh, và không
được thay đổi điều ǵ nếu không v́ lư do tiến bộ riêng thuộc phạm vi tổ
chức” (Bản dịch Việt ngữ của Phân khoa Thần học Giáo Hoàng Học Viện Piô X,
Đà Lạt).
Hiến chế tín lư Lumen Gentium của Công đồng chung Vatican II về Giáo Hội,
nói về các Giáo Hội Công Giáo phương Đông, tại số 23, trong đó nêu:
"Các Giáo Hội khác nhau mà các Tông Đồ và những đấng kế vị đă thành lập tại
nhiều nơi khác nhau theo ḍng thời gian, Chúa Quan Pḥng đă muốn tụ hợp lại
thành nhiều nhóm được liên kết ở tổ chức; các nhóm này có kỷ luật riêng,
phụng vụ riêng, thừa hưởng di sản thần học và thiêng liêng riêng mà không
phương hại đến sự hiệp nhất đức tin cũng như bản chất duy nhất và thần linh
của Giáo Hội phổ quát. Trong các Giáo Hội ấy, một vài Giáo Hội, nhất là
những Giáo Hội cổ xưa do các Giáo Chủ lănh đạo, như các bà mẹ đức tin, đă
sinh nhiều Giáo Hội khác như con cái ḿnh, và vẫn c̣n liên kết với nhau cho
đến ngày nay bằng mối dây bác ái mật thiết và bằng đời sống bí tích trong sự
tôn trọng quyền lợi và nghĩa vụ lẫn nhau. Các Giáo Hội địa phương tuy khác
nhau như thế nhưng đều hướng về sự hiệp nhất, nên càng minh chứng đặc tính
Công Giáo của một Giáo Hội không phân chia. Cũng thế, ngày nay các Hội Đồng
Giám Mục có thể góp phần phong phú bằng nhiều thể cách để cụ thể hóa tinh
thần cộng đoàn" (Bản dịch, như trên).
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II ban hành Bộ Giáo luật của các Giáo Hội
phương Đông, và cử hành mừng 100 năm ngày công bố tông hiến Orientalium
Dignitas của Đức Giáo Hoàng Lêô XII, với tông thư Orientale Lumen có đoạn
như sau:
"Bởi v́, trong thực tế, chúng tôi tin rằng truyền thống đáng kính và cổ xưa
của các Giáo Hội phương Đông là một phần không thể tách rời của di sản của
Giáo Hội Chúa Kitô, sự cần thiết đầu tiên cho người Công Giáo là phải làm
quen với truyền thống đó, để được nuôi dưỡng bởi nó và để khuyến khích tiến
tŕnh hiệp nhất trong cách tốt nhất có thể cho mỗi người.
"Anh chị em Công Giáo phương Đông của chúng ta rất ư thức về việc là người
mang truyền thống này cách sống động, cùng với các anh chị em Chính thống
của chúng ta. Các thành viên của Giáo Hội Công Giáo của truyền thống Latinh
cũng phải được làm quen hoàn toàn với kho tàng ấy, và do đó cảm thấy, cùng
với Đức Giáo Hoàng, một khát khao nồng nàn rằng sự biểu hiện đầy đủ các tính
Công Giáo của Giáo Hội được phục hồi cho Giáo Hội và thế giới, được thể hiện
không phải bằng một truyền thống duy nhất, và vẫn c̣n bởi một cộng đồng ít
đối lập với nhau; và rằng chúng ta cũng có thể được trao ban một hương vị
đầy đủ của di sản mặc khải của Chúa và không thể phân chia của Giáo Hội phổ
quát, vốn được bảo tồn và phát triển trong đời sống của các Giáo Hội phương
Đông, cũng như trong các Giáo Hội phương Tây".
Như vậy, chúng ta có thể kết luận, sự mong ước của Giáo Hội Công Giáo là
rằng thành phần phương Đông của ḿnh không chỉ tồn tại, mà c̣n tiếp tục tăng
trưởng, phát triển và làm giàu cho Giáo Hội hoàn vũ với nhiều kho tàng của
nó.
(Nguyễn Trọng Đa/ Zenit.org 25-10-2016)