Trả lời: Đúng
Giáo Hội đă cho phép hỏa táng (cremation) xác chết miễn là việc này không có
nghĩa là phủ nhận niềm tin “xác
loài người ngày sau sống lại” như
ta đọc trong kinh Tin Kính.
Sở dĩ có việc cấm hỏa thiêu xác người chết là v́ trước kia có bè rối kia
(heretics ) đă chống lại niềm tin của Giáo Hội về sự sống lại của kẻ chết,
nên đă hô hào đốt xác chết để thách đố xem Giáo Hội c̣n lấy ǵ mà tin xác kẻ
chết sẽ sống lại được nữa. V́ thế Giáo Hội đă cấm thiêu xác kẻ chết để không
mắc mưu bè rối kia.
Nhưng sau này bè rối đó đă tan ră , nên từ sau Công Đồng Vaticanô II , Giáo
Hội lại cho phép hỏa táng, miễn là việc này không có nghĩa chối bỏ niềm tin
về sự sống lại của những ai đă chết trong thân xác con người. (x. SGLGHCG,
số 2301, giáo luật số 1176,& 3)
Tuy nhiên, theo truyền thống rất xa xưa trong xă hội loài người, đặc biệt là
người Do Thái, th́ mồ mả (tombs) và nghĩa trang (cemetery ) là nơi an nghỉ
của những người đă chết chờ ngày sống lại và việc chôn xác kẻ chết là một
việc đạo đức rất quan trọng đối với người Do Thái từ thời các Tổ Phụ
(Patriarch) của họ như ta đoc thấy trong Kinh Thánh Cựu Ước sau đây :
Trước hết, Sách Sáng Thế Kư, chương 23 nói về việc xây mồ mả cho các tổ Phụ
Do Thái.
Đây là nghĩa vụ rất quan trọng đối với thân nhân những người đă chết.Cụ thế,
khi bà Sara, vợ ông Abraham, thọ được 127 năm và qua đời tại Kiriatharba,
thuộc đất của dân Canaan, ông đă nài xin con cái ông Khết (Hittites) như
sau:
“Tôi là
người ngoại kiều và là người khách ở giữa các ông. Xin các ông thương cho
tôi một miếng đất riêng là phần mộ ở giữa các ông để tôi đem người chết của
tôi đi chôn.” (St 23:4)
Và đáp lời xin của ông Abraham, con cháu ông Khết (Hittites =cư dân ở đất
Canaan, không phải là người Do Thái) đă hoan hỉ đáp lời ông như sau:
“Thưa
ngài, xin nghe chúng tôi nói: Ngài là một vị đầu mục của Thiên Chúa ở giữa
chúng tôi., xin cứ chôn người chết của ngài trong ngôi mộ tốt nhất của chúng
tôi. Không ai trong chúng tôi sẽ từ chối không cho ngài chôn người chết của
ngài trong mộ của chúng tôi đâu.” (St
, 23:6)
Đối với dân Do Thái thời bấy giờ, chỉ có những kẻ vô đạo, làm điều gian ác
mới bị từ chối cho chôn xác trong mồ và đây là một bất hạnh to lớn dành cho
bọn người này Đó là tai họa Thiên Chúa đă phạt ḍng dơi vua Jeroboam, người
cai trị Israel sau Triều đại David. V́ Jeroboam làm nhiều điều đôc dữ, mất
ḷng Thiên Chúa, khiến Người nổi giận và đe dọa giáng tai họa xuống nhà
Jeroboam qua miệng ngôn sứ Ahijah nói với vợ của vua Jeroboam như sau:
“Ta sẽ
tiêu diệt khỏi nhà ấy mọi đàn ông con trai,tự do hay nô lệ trong dân
Israel... Kẻ nào thuộc về nhà Jeroboam mà chết trong thành th́ sẽ bị chó ăn
thịt; người chết ngoài đồng sẽ bị sẽ bị chim trời rỉa thây” (1
Vua 14:10-11).
Nghĩa là không được chôn cất trong mồ mả, trừ A-vi-gia (Abijah) hoàng tử con
vua Jeroboam đang lâm trọng bệnh và chết sau đó .Nhưng v́ là người biết kính
sợ Thiên Chúa, nên sau khi chết, A-vi-gia đă được toàn dân Israel khóc
thương tiếc và
“được chôn trong mồ, bởi v́ trong cả nhà Jeroboam, nó là người c̣n có một
chút ǵ là đẹp ḷng Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel.” (Sđd
14:13).
Như thế, được chôn xác trong mồ là một vinh phúc cho dân Do Thái thời đó và
cho đến nay.Tuyệt đối không có vấn đề thiêu xác kẻ chết v́ bất sứ lư do
nào.Chỉ có tai họa hay trừng đối với những kẻ sống vô đạo, làm điều gian ác,
trái nghịch với đường lối của Thiên Chúa khi không tuân giữ những thánh chỉ
của Người.
Chỉ những kẻ này mới không được chôn trong mồ sau khi chết, như Ngôn sứ
Giê-rê-mia đă cảnh cáo vua Giơ-hô-gia-kim, (Jehoiakim) con vua Gio-si-gia
(Josiah) vua xứ Judah, kẻ đă cai trị dân cách bạo tàn, không đẹp ḷng Chúa,
nên sau khi chết sẽ không được chôn cất xứng đáng mà sẽ bị quăng xác ra
đường như một con vật :
“Nó sẽ
được chôn cất như một con lừa. Người ta sẽ lôi, sẽ quẳng nó tận bên ngoài
cổng thành Giêrusalem.” (Gr
22:19)
Tóm lại, chỉ những kẻ bị lên án khi c̣n sống mà không ăn năn hối cải th́ khi
chết sẽ không được chôn cất trong mồ như các bằng chứng Kinh Thánh trên đây.
Nhưng việc chôn xác kẻ chết là một truyền thống lâu đời của Dân Do Thái. Cụ
thể, ông Tôbia là người chuyên đi chôn xác kẻ chết như ta đọc thấy trong
Sách Tobia sau đây :
“Nếu ai
thấy trong số đồng bào tôi chết và bị quăng thây ra phía sau tường thành
Ni-ni-vê th́ tôi chôn cất người đó. Nếu có ai bị vua Xan-khê rip
(Sennacherib) giết chết trên đường vua chậy trốn khỏi Giu-đê, trong những
ngày Vua Trời trừng phạt vua về những lời phạm thượng đă thốt ra, th́ tôi
cũng chôn cất. Quả vậy, trong cơn thịnh nộ, vua đă giết chết nhiều người
trong con cái Israel ,c̣n tôi cứ đi lấy trộm xác họ mà chôn.” (Tb
1 :17-18)
Chính nhờ những việc lành đạo đức và bác ái trên của ông mà Thiên Chúa đă
thưởng công cho Tôbia khi sai Sứ Thần Ra-pha-en đến dẫn con ông đi t́m được
mật cá để chữa cho ông khỏi bị mù ḷa v́ phân chim rơi trúng mắt, khi ông
đang nằm nghi ngoài sân, bên bờ tường. .Ngoai ra, Sứ Thần Ra-pha-en c̣n dẫn
Tobia con đến gặp Sara để cưới làm vợ hiền
Khi Chúa Giêsu đến trong trần gian, Người cũng không thay đổi truyền thống
chôn xác kẻ chết, của người Do Thái. Và chính Chúa cũng đă chuẩn bị cho việc
mai táng Người, khi Chúa đến nhà ông Simon để dùng bữa với nhiều người khác
ở đây. Dịp này có một phụ nữ mang dầu thơm đến đế xức cho Chúa và Chúa đă
nói với mọi người có mặt trong nhà như sau:
“… Điều
ǵ làm được th́ cô đă làm:cô đă lấy dầu thơm ướp xác tôi để chuẩn bị ngày
mai táng.”(Mc 14 :8)
Và sau khi chết trên thập giá, Chúa Giêsu đă được mai táng trong mồ đá
.Nhưng v́ nghèo khó, Chúa đă không thể mua cho ḿnh một phần mộ sẵn, nên các
môn đệ của Chúa đă phải mượn ngôi mộ trống của ông Giuse để cho Chúa nằm tạm
trong 3 ngày chờ ngày Phục Sinh. (Mt 27:57-61; Lc 23:50-55; Ga 19:38-42
Như vậy, từ thời Cựu đến Tân Ước, truyền thống chôn xác kẻ chết đă được duy
tŕ để cho xác kẻ chết được yên nghỉ trong mồ ngoài nghĩa trang chờ ngày
được sống lại, kết hợp với linh hồn
để được vui hưởng hạnh phúc Nước Trời, nơi dành cho những ai khi c̣n sống đă
quyết tâm yêu mến Chúa và sống theo đường lối của Người, từ bỏ tội lỗi và
thực thi công b́nh,bác ái.
Giáo Hội từ lâu đời đă có nghi thức an táng cũng như làm phép nghĩa trang
làm nơi an nghỉ cho những người quá cố chờ ngày được sống lại. Hàng năm, vào
tháng 11, Giáo Hội khuyên khích các tín hữu viếng nghĩa trang và được ân xá
(indulgences) nhưng phải dành ân xá này để xin ơn tha thứ cho những linh hồn
mà xác đang an nghỉ ở nơi đây.
Vậy, nếu cứ thiêu xác kẻ chết và đem tro tàn về nhà hay gửi ở các nhà thờ,
nhà nguyện th́ dần dần các nghĩa trang sẽ không c̣n là nơi an nghỉ của các
thân xác con người chờ ngày sống lại nữa Và đến tháng các linh hồn, thân
nhân cũng không c̣n nơi để viếng xác người thân đă qua đời nữa, v́ đă được
hỏa thiêu và để tro tàn ở nơi nào rồi.. Mặt khác, Nhà thờ , nhà nguyện là
nơi thờ phượng và cử hành các bí tích và nghi thức phụng vụ thánh, không
phải là nghĩa trang để cất giữ tro tàn của người chết. Tư gia lại càng không
phải là nghĩa trang nữa. Ấy là chưa nói đến một dịch vụ mới nẩy sinh do việc
gửi tro người chết tại nhà thờ. Đó là vấn đề phí tổn của việc giữ các hộp
tro kia.. Hiện nay có nơi người ta phải trả 2000 (hai ngàn) mỹ kim cho mỗi
hộp tro muốn gửi ở nhà thờ nhận giữ các hộp tro này.Nhưng thử hỏi, các nơi
nhận giữ tro của người hỏa thiêu có giữ măi măi các hộp tro này không, hay
một ngày nào đó cơ sở thờ phượng phải đóng cửa v́ lư do riêng nào đó. (nhà
thờ Mỹ nào không đủ tiền để chi phí hoặc ít giáo dân tham dự sẽ được xáp
nhập vào giáo xứ khác=consolidation of parishes) như vậy ai sẽ quản lư các
hộp tro kia?
Nhưng nếu chẳng may xảy ra hỏa hoạn ở tư gia hay cả ở nhà thờ (nhiều nhà thờ
Mỹ đă bị hỏa hoạn) th́ đem các hộp tro kia đi đâu để tránh hỏa hoạn? Và nếu
không kịp di chuyển đi, th́ các hộp tro kia sẽ thành tro bụi thêm một lần
nữa và thân nhân sẽ không thể nào t́m ra “tro”của
thân nhân ḿnh trong đống tro tàn chung đó được. Nhưng xưa nay, chưa hề xảy
ra việc nghĩa trang bị hỏa hoạn. Có chăng là một số nghĩa trang bị tàn phá
trong chiến tranh hay bị kẻ gian “đào
mả”để lấy trộm quí kim chôn cất, chứ không lấy xác của người chết làm
ǵ.
Đó là những là điều bất tiện phải suy nghĩ liên quan đến vấn đề hỏa táng
người chết. Đành rằng Giáo Hội cho phép, tuy nhiên giáo luật vẫn đưa ra lời
khuyến cáo sau đây:
“Giáo Hội
tha thiết khuyên nhủ nên duy tŕ phong tục đạo đức chôn cất thi hài người
quá cố ."(giáo luật số 1176, triệt 3)
Mới đây, Thánh
Bộ Giáo lư Đưc tin của Ṭa Thánh vừa ra thông cáo khuyến
khích việc chôn cất kẻ chết theo truyền thống đă có lâu đời trong Giáo Hội,
Và dù cho phép việc thiêu xác, nhưng việc này phải được làm với hai điều
kiện sau đây:
1- Thiêu xác không có nghĩa là chối bỏ niêm tin xác (hay tro người chết) sẽ
sống lại làm một với linh hồn trong ngày phán sét chung để cả hồn xác được
vào Thiên Đàng hưởng phúc vĩnh cửu vởi Chúa, hay phải xa Chúa đời đời trong
nơi gọi là hỏa ngục.
2- Nếu thiêu xác th́ phải giữ tro trong nơi thờ phượng chứ không được đem
trải ra ngoài sông , hồ hay biển như những người không có đức tin đang làm.
Tóm lại, dù chôn hay thiêu xác th́ phải làm trong niềm tin “xác loài người
ngày sau sống lại”như ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính đọc các ngày Chúa
Nhật và Lễ Trọng.
Như vậy, người ta có nên hỏa táng xác người thân hay nên tiếp tục đem chôn
cất ngoài nghĩa trang như Thánh Bộ vừa long trọng khuyến cáo?
Ở Mỹ th́ không sợ nghĩa trang hết chỗ chôn,v́ đất trống c̣n rất nhiều.
Riêng tôi, tôi không chọn hỏa táng cho ḿnh cũng như cho thân nhân sau khi
chết. Ai muốn hỏa táng th́ tùy chọn lựa của người đó, xin miễn phê b́nh.
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn