|
Hỏi: Tôi mới tham dự
một Thánh Lễ. Trong bài giảng (vốn tập trung vào đức tin của chúng ta là
người Công Giáo), vị linh mục sử dụng tiếng thô tục không chỉ một lần (
"... Đồ chết tiệt!", trích dẫn từ Flannery O'Connor) nhưng hai lần (lần
này là một lời có tính riêng tư hơn: "Chúng ta là đồ ngốc khốn kiếp!").
Tôi phải nói rằng, điều này làm cho tôi rất khó chịu cho suốt buổi lễ,
và tôi vẫn c̣n thấy bực bội vào cuối ngày trong giờ kinh tối. Tôi cố
gắng hết sức để không nói lời thô tục – việc kiềm chế này đang trở thành
ngày càng khó hơn trong xă hội chúng ta đang sống. Thưa cha, có trường
hợp nào mà lời thô tục là được chấp nhận không? - D. B., Pittsburgh,
Pennsylvania, Mỹ.
Đáp: Bạn ạ, ở đây
chúng ta đứng trong lĩnh vực ư kiến cá nhân hơn là bất kỳ quy tắc chặt
chẽ nào.
Trước hết, thật là cần thiết để nh́n nhận rằng khái niệm thô tục, ít
nhất liên quan đến một số từ ngữ, phụ thuộc vào thói quen của địa
phương. Một số từ ngữ bị xem là thô tục trong một bối cảnh này, nhưng
lại có thể được dùng một cách đơn giản trong một bối cảnh khác.
Do đó, một linh mục nên chú ư tới sự nhạy cảm của địa phương, và tránh
sử dụng ngôn từ, ngay cả trong các trích dẫn, vốn có thể gây khó chịu
nhiều cho một số người nghe. Đồng thời, nếu một linh mục từ nơi khác đến
sử dụng một từ ngữ, vốn làm cho người nghe nhíu mày hoặc há hốc mồm, th́
ngài cần được thông cảm v́ không biết một số điều tinh tế trong ngôn ngữ
địa phương.
Điều này là cần hơn nữa khi người ta đi từ nước này đến nước khác, hoặc
thậm chí thay đổi ngôn ngữ nói khác. Đă hơn một lần tôi có kinh nghiệm
khi các giáo sĩ từ nơi khác đến đă vô t́nh làm cho thính giả phải cười
khúc khích, khi ngài dùng từ ngữ hai nghĩa, vốn trong khi đó là hoàn
toàn ngây thơ trong ngôn ngữ bản xứ của ngài.
Tuy nhiên, đây là một vấn đề khác cho vị giảng thuyết khi cố ư nói lời
thô tục trong bài giảng. Đây là điều mà tôi tin rằng là cần phải tránh
hết sức. Mặc dù tôi không nghĩ rằng vấn đề này là rất phổ biến, mà thực
sự có thể là hoàn toàn ngược lại, tôi sẽ cố gắng nêu ra vài lư do có
liên quan.
Trước tiên, trong hành động hy tế, vị linh mục đại diện cho Chúa Kitô
trong bài giảng của ḿnh, nên ngài cần tránh các từ ngữ xem ra là không
xứng đáng với Chúa. Đúng là Chúa chúng ta đôi khi thốt ra vài lời đầy
màu sắc và mạnh mẽ, để lay động sự tự măn của các kẻ phản đối sứ điệp
của Chúa. Nhưng chúng ta không t́m thấy trong đó bất cứ lời nào thô lỗ
hay không xứng hợp.
Thứ đến, mục đích của bài giảng là truyền thông sứ điệp của Chúa Kitô
cho các tín hữu. Do đó, linh mục cần phải cố gắng tạo ra sự truyền thông
tốt nhất, và tránh bất cứ lời nào có thể gây ra sự cản trở cho việc các
tín hữu chấp nhận và thẩm thấu sứ điệp ấy vào đời sống của họ.
Cuối cùng, cộng đồng giáo xứ gồm các tín hữu đủ lứa tuổi, và linh mục
phải là một gương mẫu cho họ. Thật là quá đáng tiếc, nếu các bậc cha mẹ
không cho con cái xem phim ảnh mà không có họ hướng dẫn, trong khi họ
lại nghe các lời thô tục trong bài giảng lễ.
Trong Tông huấn "Evangelii Gaudium" của ḿnh, Đức Thánh Cha Phanxicô
không giải quyết chủ đề đặc biệt này. Tuy nhiên, tôi tin rằng các nguyên
tắc, mà Ngài nêu ra về bài giảng, cho thấy rằng tông huấn là một sứ điệp
tích cực, và rằng nó sẽ loại trừ bất kỳ sự sử dụng cố ư nào về những ǵ
có thể làm cho một số tín hữu xa lánh bài giảng thiêng liêng.
Chẳng hạn, Ngài nói :
"135. Bây giờ chúng ta nh́n vào việc giảng trong phụng vụ mà các mục tử
cần phải xem xét nghiêm túc. Tôi sẽ bàn một cách đặc biệt, và thậm chí
hơi tỉ mỉ, về bài giảng và sự chuẩn bị bài giảng, v́ có quá nhiều mối
quan tâm đă được bày tỏ về tác vụ quan trọng này và chúng ta không thể
làm ngơ. Bài giảng là viên đá thử để đánh giá sự gần gũi và khả năng
truyền thông của người mục tử với dân chúng. Chúng ta biết các tín hữu
rất coi trọng bài giảng, và cả các tín hữu lẫn các thừa tác viên có chức
thánh đều khổ sở v́ các bài giảng: giáo dân v́ phải nghe các bài giảng,
c̣n các giáo sĩ v́ phải giảng bài! Đây là trường hợp đáng buồn. Bài
giảng thực ra có thể là một trải nghiệm sâu đậm và vui sướng về Thần
Khí, một cuộc gặp gỡ đầy an ủi với lời Thiên Chúa, một nguồn mạch canh
tân và tăng trưởng thường xuyên”.
"137 [...] Bài giảng có tầm quan trọng đặc biệt v́ bối cảnh Thánh Thể
của nó: nó vượt quá mọi h́nh thức huấn giáo v́ là thời điểm tột đỉnh
trong cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa với dân Người, và dẫn tới việc hiệp
thông bí tích. Bài giảng một lần nữa tiếp nối cuộc đối thoại mà Chúa đă
thiết lập với dân Người. Người giảng thuyết phải biết ḷng cộng đoàn của
ḿnh, để biết chỗ nào ước muốn của nó về Thiên Chúa đang sống động và
cháy bỏng, cũng như chỗ nào mà cuộc đối thoại ấy trước kia rất thân
thương nay đă bị thui chột và cằn cỗi”.
"139. Chúng ta đă nói rằng, nhờ Chúa Thánh Thần liên tục hoạt động trong
tâm hồn, dân Chúa không ngừng tự phúc âm hoá chính ḿnh. Nguyên tắc này
có hệ luỵ ǵ đối với các giảng viên? Nó nhắc nhớ chúng ta rằng Hội Thánh
là một người mẹ, và Hội Thánh giảng giống như cách một người mẹ nói
chuyện với con, bà biết con tin rằng mẹ dạy ǵ cũng là v́ lợi ích của
nó, v́ con cái biết rằng chúng được yêu. Hơn nữa, một người mẹ tốt có
thể nhận ra mọi sự mà Thiên Chúa đang làm nơi con của bà, nên bà lắng
nghe các mối quan tâm của chúng và học hỏi từ chúng. T́nh yêu thương ngự
trị trong gia đ́nh hướng dẫn mẹ và con trong câu truyện; khi tṛ chuyện,
mẹ và con cùng dạy và học, trải nghiệm sự sửa sai và tăng trưởng trong
cách đánh giá điều ǵ là
tốt. Một điều tương tự cũng xảy ra trong bài giảng. Cùng một Thần Khí
gợi hứng cho các sách Tin Mừng và hành động trong Hội Thánh cũng chính
là Thần Khí soi sáng cho giảng viên để nghe đức tin của dân Chúa và t́m
cách thích hợp để giảng vào mỗi Thánh Lễ. Bài giảng Kitô giáo v́ thế t́m
được nơi con tim của dân chúng và nền văn hoá của họ một nguồn nước sự
sống, gúp giảng viên biét phải nói ǵ và nói thế nào. Như tất cả chúng
ta đều thích được người khác nói với ḿnh bằng tiếng mẹ đẻ của ḿnh, th́
cũng vậy, trong đức tin, chúng ta thích được người khác nói với ḿnh
bằng “văn hoá mẹ” của chúng ta”, bằng tiếng bản xứ của chúng ta (xem 2
Mcb 7, 21. 27), và quả tim chúng ta sẵn sàng nghe hơn. Ngôn ngữ này là
một thứ âm nhạc khêu gợi sự khích lệ, sức mạnh và niềm phấn khởi”.
"140. Khung cảnh này, vừa từ mẫu vừa Hội thánh, trong đó diễn ra cuộc
đối thoại giữa Chúa và dân của Người, phải được khuyến khích bởi sự gần
gũi của giảng viên, sự ấm áp của âm giọng, sự đơn sơ không phô trương
trong cách nói, và sự vui vẻ trong các điệu bộ của giảng viên. Cho dù
bài giảng đôi khi có thể có phần tẻ nhạt, nhưng nếu có tinh thần từ mẫu
và hội thánh, nó sẽ luôn luôn hiệu quả, giống như những lời khuyên bảo
nhàm chán của một người mẹ, khi đến lúc, cũng sinh hoa kết quả trong
ḷng các con của bà" (Bản dịch tiếng Việt của Ủy Ban Loan Báo Tin Mừng
thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam).
Sau đó, Ngài đưa ra một số lời khuyên thiết thực để giúp các linh mục
chuẩn bị bài giảng, trong đó có việc cần dành một lượng thời gian dài
cho việc học hỏi, cầu nguyện, suy tư và óc sáng tạo mục vụ (số 145), và
kính trọng sự thật bằng cách cố gắng hiểu đúng ư nghĩa sứ điệp trọng tâm
của một bản văn (số 146-148).
Cuối cùng Ngài nhắc nhở các linh mục rằng "người giảng thuyết cũng cần
để tai nghe dân và t́m xem các tín hữu cần nghe những ǵ. Người giảng
thuyết phải nh́n xem thế giới, nhưng cũng phải nh́n xem người dân" (số
154) (Bản dịch, như trên).
Nếu linh mục chúng ta suy nghĩ nhiều về tông huấn của Đức Thánh Cha,
chắc chắn chúng ta sẽ nâng cao chất lượng bài giảng của ḿnh, và tỏa lan
niềm vui của Tin Mừng cho các tín hữu.
(Nguyễn
Trọng Đa chuyển ngữ/
Zenit.org 18-2-2014)