Một bạn đă đặt câu hỏi như sau: con nghe nói có linh hồn hiện về, có đúng không? Có được phép gọi hồn hay không?
Cần phải tách rời hai câu hỏi, bởi v́ mỗi câu hỏi bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau. Câu hỏi thứ nhất là việc các linh hồn hiện về. Trên nguyên tắc, th́ vấn đề có thể xảy ra, và chắc chắn đă xảy ra. Chúng ta tin rằng sau khi chết, th́ thân xác tan ra bụi tro, nhưng linh hồn th́ bất tử. Thế nhưng các linh hồn ấy đi đâu, th́ ta không thể quả quyết được, xét v́ khái niệm nơi chốn chỉ áp dụng cho các vật thể có trương độ; c̣n hồn thiêng th́ không có h́nh thể cao thấp lớn nhỏ, rộng hẹp, v́ vậy mà cũng không có chiếm chỗ ǵ hết; bởi v́ vậy chúng ta khó có thể h́nh dung họ đi đâu, ở chỗ nào. Một khi đă không biết hồn đi đâu th́ cũng chẳng thể nói rằng họ từ đâu hiện về! Đó là nói theo lư luận thuần túy. Khi đọc lịch sử Giáo hội, chúng ta có nghe kể chuyện các linh hồn hiện về, và dĩ nhiên trong đó cũng bao gồm cả các thánh nữa. Những tích ấy đă nghe thuật nhiều lần, với những chứng nhân thuộc nhiều nơi nhiều thời, khiến cho chúng ta có thể tin rằng việc ấy có thật. Đàng khác, chúng ta tin rằng quyền năng của Chúa có thể cho phép các linh hồn hiện về với một mục đích ǵ đó. Tuy nhiên, đến đây chúng ta vẫn c̣n đứng trên phạm vi lư thuyết. Thực vậy, khi đi vào từng trường hợp cụ thể, th́ chúng ta gặp rất nhiều vấn nạn. Tỉ như: khi người nào đó quả quyết rằng họ thấy linh hồn nào đó hiện về, th́ có thật là họ thấy hay không, hay là do trí tưởng tượng, hoặc là đang mơ. Tâm lư học thuật lại những trường hợp mà một người mới mất một người thân (mất cha, mẹ, vợ chồng ǵ đó), th́ h́nh ảnh của người ấy gắn vào tâm trí quá mạnh đến nỗi họ tưởng như c̣n lảng vảng bên họ. Đi thêm một bước nữa, chúng ta có thể đặt tiếp câu hỏi: giả như họ thấy linh hồn thực, chứ không phải do ám thị hay giấc mơ, thời cái h́nh dung mà họ thấy có thật là của linh hồn hay là cái ǵ khác? Câu hỏi này được gợi lên bởi v́ chúng ta quan niệm rằng hồn thiêng, th́ làm sao mà có h́nh dong mặt mũi nữa. Vậy th́ cái mà ta thấy là cái ǵ? Tôi nghĩ những câu hỏi đó cũng có thể được đặt ra một cách tương tự mỗi khi có người nói rằng họ thấy Đức Mẹ hiện ra. Không ai chối căi sự kiện Đức Mẹ hiện ra cả. Nhưng hiện ra như thế nào? Tại sao h́nh dáng và khuôn mặt của Người mỗi nơi một khác: ở La Salette th́ khác, ở Lộ đức th́ khác, ở Fatima th́ khác? Chắc chắn là không ai dám nói rằng tại v́ Mẹ đă cải trang. Vậy th́ chỉ có cách trả lời là tại chúng ta hóa trang cho Mẹ, nghĩa là tô vẽ cho Người dung nhan theo óc tưởng tượng của ḿnh. Chúng ta cũng có thể đặt câu hỏi tương tự như vậy cho những ai quả quyết rằng họ thấy Chúa Hài đồng hiện ra. Có thể là Chúa đă hiện ra thật, nhưng chắc chắn rằng Ngài không thể nào trở lại trạng thái của một trẻ thơ được nữa. Caí h́nh ảnh hài nhi mà họ thấy th́ hoặc là do óc tưởng tượng của họ hoặc là cái ǵ khác, chứ không phải là chính thân xác của đức Kitô, đă Phục sinh và đang ở trong vinh quang. Bước sang câu hỏi thứ hai: có được phép gọi hồn không? Câu hỏi này cũng bao gồm rất nhiều khía cạnh. Trước hết là dưới khía cạnh khoa học: có thể dùng một kỹ thuật, một phương pháp nào đó để gọi hồn hay không? Thứ đến là khía cạnh thần học, cách riêng là thần học luân lư: người Kitô có được phép xử dụng phương pháp hay kỹ thuật ấy để gọi hồn không? Chúng ta bắt đầu bằng khía cạnh khoa học trước. Ngay từ xưa lắm rồi, chúng ta đă thấy tập tục gọi hồn, đồng bóng ở nhiều nơi, kể cả ở dân Israel. Nhưng vào thời đại chúng ta, nó trở thành một phong trào, một học thuyết nếu không nói là một tôn giáo, được tŕnh bày bởi Allan Kardec. Ở Việt Nam, nếu tôi không lầm th́ kỹ thuật này được du nhập và quảng bá qua Hội Thông Thiên học và phần nào qua đạo Cao đài. Allan Kardec tên thật là Léon Hippolyte Rivail người Pháp (1804-1869) xuất bản cuốn sách “Livre des Esprits”, trong đó ông thuật lại khám phá của ông, và đồng thời phát biểu lư thuyết cũng như kỹ thuật để thông đạt với các hồn. Tưởng nên biết là ông ta dùng tiếng “esprit” chứ không phải là “âme” để chỉ các hồn. Theo ông ta, con người được gồm nên bởi ba yếu tố: ngoài hồn và xác ra, yếu tố thứ ba gọi là “tinh xác”, một thứ thể chất tinh vi kết tụ từ những năng lực trong vũ trụ. Nó là hợp thể, trung gian giữa xác (chất thể), và hồn (thiêng liêng). Khi chết, th́ thể xác tan ră, c̣n cái hồn tồn tại và mặc lấy h́nh thù của cái “tinh xác” ấy và đi lảng vảng trong vũ trụ. V́ vậy mà ḿnh có thể gọi nó hiện về, đại khái như chúng ta bật radio để bắt các làn sóng phát thanh trên khí quyển vậy. Kỹ thuật gọi hồn được thực hiện qua những buổi hội cầu cơ. Vấn nạn, xét về phía khoa học được đặt ra như sau: cái mà người ta gọi là hồn hiện về có thực như vậy hay không, hay chỉ là chuyện xạo, đặt ra để lừa thiên hạ? Bao nhiêu đồng bóng đă tự thú là họ lường gạt kiếm tiền, tựa như Dunglas Home, Kate và Margaret Fox. Giả như những tiếng động hoặc những di chuyển có thực đi nữa, th́ có phải là hồn thiêng hiện về hay không, hay là do ám thị, vô thức, linh tính, trực giác, hay một tài năng phi thường nào đó mà khoa hoc c̣n đang t́m ṭi (khoa học gọi là parapsychologie, hay metapsychique). C̣n dưới khía cạnh thần học th́ sao? Dưới khía cạnh thần học th́ việc gọi hồn là một điều cấm. Ngay từ Cựu ước, tục lệ gọi hồn đă bị cấm rồi, như chúng ta đọc thấy ở sách Levi 19,31; 20,6; Đệ nhị luật 18, 10-14; Isaia 8,19. C̣n trong Kitô giáo, việc cấm gọi hồn được nhắc lại nhiều lần; mới đây trong sách Giáo lư chung số 2117, trong những tội nghịch với điều răn thứ nhất. Dĩ nhiên ta có quyền hỏi: tại sao mà cấm? Tại v́ đó là chuyện nhảm nhí, xảo trá? Hay tại v́ lư do nào khác. Theo các nhà thần học, Giáo hội không muốn lên tiếng về khía cạnh khoa học, nghĩa là những kỹ thuật gọi hồn có hữu hiệu hay không, hay chỉ là tṛ xảo trá. Thực ra trong lịch sử, các nhà thần học đă tranh luận về biến cố tả ở sách thứ nhất Samuel, chương 28. Hôm ấy vua Saul bị lâm vào ngơ bí trong cuộc chiến với quân Philistin. Vua cầu xin Chúa, Chúa không trả lời. Ngôn sứ Samuel th́ đă qua đời. Không c̣n biết hỏi ai, vua tàng h́nh ban đêm đi hỏi bà đồng bóng. Lúc đầu bà rất do dự, bởi v́ lúc đó chính Saul đă triệt để nghiêm cấm việc chiêm hồn trong cả nước, bà sợ mấy ông khách là công an ch́m đi lùng; măi đến khi họ thề nhân danh Chúa th́ bà mới dám nhận. Bà kêu hồn ông Samuel, và hồn Samuel hiện về. Lúc ấy bà mới bật ngửa ra v́ biết người khách tàng h́nh chính là vua Saul. Như đă nói, các nhà thần học đă tranh luận với nhau rất nhiều về vấn đề này. Người th́ bảo rằng bà đồng bịa ra hồn ông Samuel, chứ làm ǵ có; người khác th́ bảo là ma quỷ hiện về; người khác nữa th́ nói rằng Chúa cho phép ông Samuel hiện về để thực hiện chức vụ ngôn sứ kể cả sau khi qua đời. Gần đây, các nhà chú giải cho rằng đây chỉ là một truyền tụng b́nh dân để giải thích lư do v́ sao mà Saul bị Chúa bỏ rơi và chết cách bi thảm như vậy. Chúng ta có thể đọc thấy lời giải thích ấy trong đoạn chú dẫn Kinh Thánh của cha Nguyễn thế Thuấn. Sau cùng, người ta cũng nhận thấy rằng trong nguyên bản Do thái, cái mà bà đồng thấy được tả như là “ob”, một danh từ khác với những danh từ để tả linh hồn, có lẽ để nói rằng nó là cái ǵ đó, chứ không phải là hồn của Samuel. Trở lại với vấn đề về những lư do tại sao Giáo hội cấm những chuyện gọi hồn, ta có thấy có nhiều lư do lắm, thuộc về phương diện tín lư, luân lư và mục vụ. 1/ Dưới khía cạnh tín lư, việc cầu cơ dựa trên những giả thiết về số phận linh hồn không hợp với đạo lư công giáo. Họ nói rằng sau khi chết linh hồn c̣n lảng vảng trên không trung, và có thể đầu thai sang kiếp khác, hoặc nhập vào một cái h́nh bóng nào đó. Cũng trên khía cạnh tín lư, người tham dự các buổi cầu cơ trông mong nhận được một thứ mạc khải nào đó; như vậy là họ muốn dựa ḷng tin của họ nơi cái ǵ khác nữa, ngoài mạc khải của đức Kitô được truyền lại cho chúng ta qua Thánh kinh trong Giáo hội. 2/ C̣n xét dưới phương diện luân lư, việc cầu cơ đi ngược với nhân đức thờ phượng; xét v́ họ muốn bắt Chúa phải nghe lời họ mỗi khi họ gọi; họ biến Chúa thành một thứ máy móc dưới sự điều khiển của họ. Đàng khác, tuy xem ra họ muốn điều khiển thần linh, nhưng trên thực tế không rơ ai điều khiển ai, họ đang điều khiển thần linh hay chính họ đang bị điều khiển? Bởi v́ cái mà họ gọi là hồn hiện về, có thể chỉ là ám thị, nhưng cũng có thể là ma quỷ. Và chúng ta biết chơi với ma quỷ th́ chẳng có lợi lộc ǵ. 3/ Dưới khía cạnh mục vụ, tuy rằng Giáo hội không muốn lên tiếng về sự hư thực của các kỹ thuật cầu cơ (nghĩa là cầu cơ như vậy có thật là gọi hồn hay là do ám thị), nhưng việc tham dự những buổi hội ấy mang lại những hậu quả tai hại cho sức khoẻ thần kinh và tâm lư. Bầu khí của những buổi hội gây ra những cảm xúc có thể đứng tim, và về lâu về dài, ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe thần kinh. Đó là chưa kể cái thái độ mà việc thực hành cầu cơ sẽ tạo ra cho con người: nghĩa là thái độ không dám đương đầu với thực tại; không dám dùng lư trí để mà phân tích t́nh h́nh; mà chỉ tin vào những ám thị vu vơ, và như vậy nó sẽ tạo ra một thứ mù quáng không chịu mở mắt để nh́n vào thực tại trước mắt, mà chỉ tin vào những sứ điệp nhận thấy trong đêm khuya. Như vậy, theo đạo lư Công giáo, giữa thế giới bên này với thế giới bên kia không có giao liên ǵ hết hay sao? Có chứ. Qua tín điều “sự thông hiệp giữa các thánh”, chúng ta, những người c̣n lữ hành, giao liên với những anh chị em qua đời trong đức tin, đức cậy và đức ái. Thực vậy, chúng ta tin rằng họ c̣n sống, an nghỉ trong Chúa; chúng ta hy vọng rằng họ cầu nguyện cho chúng ta và chúng ta cầu nguyện cho họ; chúng ta cũng hy vọng rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ gặp lại họ. Và nếu Chúa cho phép, họ có thể hiện về với chúng ta; nhưng chúng ta không dùng ma thuật để bắt họ về. Lm. Giuse Phan Tấn Thành, op.