Mùa
Chay
là mùa “nhập hạ,” mùa tịnh tâm của Giáo Hội. Mùa Chay bắt đầu khoảng
một tháng rưỡi sau Mùa Giáng Sinh. Đây là một cuộc tĩnh tâm thường
niên, cuộc canh tân tinh thần để đón mừng mầu nhiệm nền tảng nhất
của Kitô giáo: Chúa Giêsu được Phục Sinh từ cõi chết và hôm nay Ngài
đang là Đấng Kitô, Chúa chúng ta. Vì thế, nếu không hướng tới Lễ
Phục Sinh, tới cuộc sống mới, Mùa Chay sẽ mất ý nghĩa. Từ những thế
kỷ đầu, Kitô giáo đã hình thành nhiều tập tục, truyền thống sống
động về Mùa Chay để thể hiện những ý nghĩa chính yếu này:
-
Mầu nhiệm Khổ Nạn của Chúa Giêsu.
-
Mầu nhiệm Khổ Nạn và Phục Sinh đối với người sửa soạn lãnh Phép
Rửa.
-
Cuộc hoán cải trong đức tin.
Thời điểm
Mùa
Chay diễn ra trong mùa xuân, thời gian ngày dài hơn đêm từ sau ngày
đông chí.
Thế
kỷ thứ hai, các tín hữu đã ăn chay hai ngày để chuẩn bị mừng Lễ Phục
Sinh mỗi năm.
Thuở
đó họ nóng lòng đợi chờ Chúa lại đến, nên hai ngày chay tịnh trước
Lễ Phục Sinh là thời điểm thích hợp để chuẩn bị cho thời gian thánh
thiêng nhất: ngày Chúa lại đến. Thế kỷ thứ ba, thời gian chay tịnh
trải dài cả Tuần Thánh. Tới thế kỷ thứ tư Lễ Phục Sinh được chuẩn bị
bằng cả một Mùa Chay đầy ý nghĩa.
Mùa Chay và Phép Rửa
Mùa
Chay đặc biệt nhấn mạnh chủ đề Phép Rửa. Khoảng từ thế kỷ thứ ba,
Phép Rửa gắn liền với đêm Canh Thức mừng Chúa Phục Sinh (Vọng Phục
Sinh). Những thế kỷ đầu việc chuẩn bị cho Phép Rửa trải dài nhiều
năm. Thuở đó những người trưởng thành muốn gia nhập Giáo Hội thì
không thể gia nhập ngay. Họ cần tới ba năm thử thách. Trong thời
gian này họ được hướng dẫn, nâng đỡ để từ bỏ nếp sống lương dân và
tập sống nếp sống mới. Sau đó, họ được nhận vào làm ứng viên bí tích
Phép Rửa. Cuối cùng, vào một thời điểm đặc biệt, sau này gọi là Mùa
Chay, họ được học hỏi sâu rộng hơn, được lãnh nghi thức trừ tà, tham
dự một số các nghi thức khác, giữ chay tịnh Thứ Sáu, Thứ Bảy Thánh
và được lãnh Phép Rửa vào đêm Phục Sinh. Khi cuộc bắt đạo tại Rôma
chấm dứt vào năm 313, Giáo Hội bắt đầu xác định rõ ràng hơn tiến
trình cử hành công khai thời gian dự tòng (Katechein: giảng dạy),
tiến trình đón nhận các dự tòng nhập đạo. Và giai đoạn chuẩn bị cuối
cùng để lãnh Phép Rửa luôn bao gồm một giai đoạn chay tịnh để củng
cố nếp sống mới.
Ban
đầu, theo nghi thức, thời gian chuẩn bị Lễ Phục Sinh là thời gian
đặc biệt chỉ dành cho các dự tòng; về sau, trở thành phổ thông. Mọi
tín hữu đều dự vào truyền thống chay tịnh. Đầu thời Trung Cổ, những
nghi thức dự tòng cũ biến mất để lại truyền thống bốn mươi ngày Mùa
Chay, mùa chuẩn bị Lễ Phục Sinh.
Sám hối
Thế
kỷ thứ tư, việc chuẩn bị cho dự tòng lãnh Phép Rửa được kết hợp với
việc chay tịnh và những thực hành sám hối khác trước Lễ Phục Sinh,
để chuẩn bị cho những hối nhân phạm tội công khai hay phạm tội ác
được lãnh ơn tha thứ. Những thực hành này cũng mở rộng dần tới các
tín hữu khác và vào thời Trung Cổ đã lan cả Giáo Hội. Thời này nghi
thức sám hối nhấn mạnh tới tội riêng tư. Do đó trong phụng vụ, Mùa
Chay là “mùa tím,” tím màu sám hối, nên Lời ngợi khen Alleluia và
Kinh Vinh Danh bị hủy bỏ. Phụng vụ cũng cấm cử hành những cuộc cưới
xin trong Mùa Chay. Ở vài nơi còn có cả nghi thức “chôn táng” bài
ngợi ca Alleluia.
40
ngày chay tịnh
Thuở
đầu Mùa Chay kéo dài suốt 40 ngày dành cho các dự tòng. Sau, mọi
Kitô hữu khác cũng ăn chay 40 ngày để bắt chước Chúa Giêsu chay tịnh
40 ngày trong sa mạc (Mt 4,2). Trong Cựu Ước, chúng ta cũng gặp 40
ngày của Môsê trên núi Sinai (Xh 34,28), 40 ngày của Êlia trên núi
Horeb (1 V 19,8) và 40 năm dân Chúa lang thang trong sa mạc. Từ ngữ
chính thức của Giáo Hội chỉ Mùa Chay là Quadragesima (Mùa 40).
Từ
đầu, 40 ngày ăn chay được tính ngược từ chiều Thứ Năm Thánh (ngày
đầu trong Tam Nhật Vượt Qua) – nghĩa là ngày đầu tiên trúng vào Chúa
Nhật thứ nhất Mùa Chay. Tuy nhiên, tín hữu không bao giờ ăn chay
trong những Chúa Nhật Mùa Chay, vì Chúa Nhật được kể là ngày tưởng
nhớ Chúa Phục Sinh (còn được gọi là Lễ Phục Sinh nhỏ). Do đó khoảng
thế kỷ thứ bảy, Mùa Chay sáu tuần lễ tính sớm hơn: từ thứ tư Lễ Tro,
và gồm cả Thứ Năm và Thứ Sáu Thánh, để tròn 40 ngày ăn chay. Giáo
Hội Đông Phương không kể ngày thứ Sáu và Thứ Bảy Thánh là ngày chay,
nên Mùa Chay bắt đầu sớm hơn một tuần.
Phụng
vụ Chúa Nhật Mùa Chay luôn duy trì tiến trình của thời gian dự tòng,
nhấn mạnh cuộc hành trình vào bí tích Phép Rửa. Năm 1972, Giáo Hội
công bố “Nghi Thức Khai Tâm Kitô Giáo Cho Người Trưởng Thành,” làm
sống lại thời gian dự tòng thuở trước.
Theo
đó, cả hai thành phần, dự tòng và tín hữu, được hướng tới hành trình
của Phép Rửa gồm: nghi thức tuyển chọn, cử hành Tin Mừng, tuyên xưng
đức tin, kinh Lạy Cha, công bố từ bỏ ma quỷ (thay thế việc trừ quỷ
ngày xưa). Việc di chuyển tân tòng (sau bài giải thích Lời Chúa) tới
một nơi khác trong nhà thờ để được hướng dẫn đặc biệt về bài đọc
Thánh Kinh của ngày hôm ấy.
Cũng
như lòng mộ mến của các tín hữu, phụng vụ Mùa Chay gắn bó với nỗi
đau và cái chết của Chúa Giêsu.
‘Thứ Ba Béo’
Ngay
trước Mùa Chay, tuy không có trong niên lịch Giáo Hội, nhưng theo
thói quen, dân chúng có ngày “thứ ba béo,” ngày vui vẻ hội hè. Đó là
“cuộc vui” cuối cùng trước khi bước vào mùa ăn chay kiêng thịt nhiệm
nhặt từ hôm sau, Thứ Tư Lễ Tro. Thói tục này tuy không được Giáo Hội
khuyến khích nhưng vẫn lưu truyền trong dân chúng với mục đích thực
tế. Hồi đó, những thức ăn mà luật chay tịnh nghiêm ngặt của Giáo Hội
cấm là những thức ăn cần ướp lạnh. Vì kỹ thuật ướp lạnh đã không hề
được phát minh mãi cho tới thế kỷ XIX nên thật ý nghĩa việc dân
chúng mang ra ăn hết những thức ăn nào sẽ bị hư, nếu để qua sáu tuần
lễ ăn chay. Đồng thời họ chia sẻ những thức ăn này với gia đình
khác. Vì thế những bữa ăn chung vào Thứ Ba trước Lễ Tro mang không
khí vui vẻ của ngày lễ hội. Thế kỷ 14, ngày “thứ Ba Béo” đã được tổ
chức khá phổ biến. Lễ hội này cũng phản ảnh những cuộc chè chén, hóa
trang và những thói tục lương dân mừng mùa xuân hay ngày xuân phân.
Phải chăng vì Giáo Hội cấm những cuộc truy hoan trong suốt Mùa Chay
nên dân chúng dễ bù trừ bằng một lễ hội “vọng chay”?
Thứ Ba xá giải
Ngày
trước Thứ Tư Lễ Tro còn mệnh danh là Thứ Ba xá giải. Nhóm từ này
xuất phát từ tập tục xưa: giáo hữu thường tới lãnh bí tích xá giải
để chuẩn bị bước vào Mùa Chay Thánh.
Thứ Tư Lễ Tro
Thứ
Tư Lễ Tro chính thức đưa tín hữu vào Mùa Chay và Mùa Phục Sinh. Theo
thói quen, tro được đốt từ những cành lá trong Lễ Lá năm trước còn
lại. Tro này sẽ được bỏ trên trán các tín hữu. Việc đổ tro lên đầu
và mặc áo nhặm là nghi thức sám hối chung trong dân Do Thái xưa
(Giôna 3,5-9 / Giêrêmia 6,26 / Matthêu 11,21. ..).
Thuở
đầu, nghi thức xức tro cùng với ý nghĩa Thánh Kinh không có trong
nghi thức mở đầu Mùa Chay. Sớm nhất là vào những năm 300, nghi thức
này được một số Giáo Hội địa phương áp dụng trong việc ra vạ tuyệt
thông tạm thời hoặc trục xuất các tội nhân đã phạm tội hoặc gây
gương mù công khai như chối đạo, lạc đạo, giết người, ngoại tình.
Vào
thế kỷ 7 nghi thức xức tro lan rộng. Trước nhất, hối nhân phải xưng
thú cá nhân. Tiếp theo họ được giới thiệu với đức giám mục và được
ghi nhận vào thành phần những người sám hối để chuẩn bị lãnh bí tích
Hòa Giải vào Thứ Năm Thánh. Sau việc đặt tay và xức tro, họ bị đuổi
khỏi cộng đoàn. Việc xua đuổi này mô phỏng Ađam và Eva bị đuổi khỏi
Vườn Địa Đàng. Hối nhân bị xua đuổi cùng với lời nhắn nhủ rằng sự
chết là hình phạt do tội: “Hãy nhớ người là tro bụi, người sẽ trở về
với bụi tro” (Sáng Thế 3,19). Họ phải sống tách rời gia đình, họ đạo
trong 40 ngày Mùa Chay (quarantine). Khi mặc áo nhặm và xức tro, họ
được mọi người nhận ra là hối nhân trong cộng đoàn, đôi khi họ phải
đứng trên những bậc thềm, trên lối vào nhà thờ. Những hình phạt
chung chung dành cho họ là kiêng thịt, rượu, không được tắm gội, hớt
tóc, cạo râu, quan hệ vợ chồng và giao dịch buôn bán. Tùy mỗi địa
phận hình phạt có thể kéo dài nhiều năm, có khi trọn đời! Thời Trung
Cổ, tội riêng được chú ý hơn tội công khai. Do đó, những tập tục về
ngày Thứ Tư Lễ Tro đỡ khắc nghiệt hơn và được thực hiện phổ thông
cho mọi tín hữu trưởng thành trong họ đạo. Những truyền thống tương
tự như thế được tuân giữ trong toàn Giáo Hội từ thế kỷ 11. Gần đây
Giáo Hội đưa ra công thức xức tro khác, có ý nghĩa tích cực hơn về
Mùa Chay: “Hãy từ bỏ tội lỗi và trung thành với Tin Mừng (Máccô
1,15). Công thức mới này, trước đây lã được sử dụng trong một tu
viện ở Giáo Hội Celtic thuộc Anh từ thế kỷ 6 đến thế kỷ 8. Đây là
công thức sám hối riêng tư dành cho tội nhẹ có vẻ thích hợp với diễn
biến của bí tích Hòa Giải hơn là nghi thức xức tro.
Có ba
loại truyền thống xác định ý nghĩa Mùa Chay:
-
Truyền thống giữ bầu khí chay tịnh trầm buồn.
-
Truyền thống thực hành sám hối đặc biệt là ăn chay kiêng thịt.
-
Những việc đạo đức tỏ lòng yêu mến Chúa Giêsu thương khó.
Những
truyền thống này, nối kết với những truyền thống mới, mang lại cho
Mùa Chay những chiều kích tích cực hơn.
Bầu khí chay tịnh
Bầu
khí chay tịnh mang sắc thái trầm buồn. Trong phụng vụ, lời ca
Alleluia và Kinh Vinh Danh bị tạm bỏ. Màu tím được sử dụng trong
phụng vụ và trong những hình thức trang trí thánh đường. Mọi sự
trang trí cách long trọng trong cung thánh được tháo gỡ. Tiếng nhạc
cũng trầm lắng.
Gần
đây trong Giáo Hội có thói quen che các ảnh tượng và tượng Chịu Nạn
bằng tấm màn tím thẫm như tín hiệu u buồn khóc than. Khoảng đầu năm
900 tại một số Giáo Hội địa phương, từ đầu Mùa Chay nhà thờ treo một
tấm màn lớn ngăn cách bàn thờ và giáo dân. Việc này nhằm tạm thời
che khuất vinh quang thiên quốc minh họa do các ảnh tượng. Đồng
thời, tấm màn che cũng tượng trưng việc tách rời tội nhân khỏi bàn
thờ, giống như các tội nhân công khai bị tuyệt thông. Từ những năm
1600 việc che màn chỉ còn thực hiện từ Chúa nhật thứ năm Mùa Chay -
ngày xưa gọi là “Chúa Nhật Vượt Qua.” Vào Chúa nhựt này, bài Tin
Mừng kết thúc với câu sau đây:
“Lúc
đó họ lượm đá ném Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã ẩn mình và lướt qua khỏi
hành lang đền thờ (Ga 8,59) (bây giờ đoạn Tin Mừng này chỉ còn trong
chu kỳ năm B).
Kiêng thịt
Ăn
chay và kiêng thịt luôn nối kết nhau. Nhưng có những quy định riêng.
Ăn chay là ăn ít hay không ăn gì. Kiêng thịt là hạn chế một số loại
lương thực - thí dụ thịt. Ăn chay là hình thức đạo đức phổ thông
ngay từ Giáo Hội sơ khai. Việc từ chối một nhu cầu nhân bản trong
một giai đoạn, mang nhiều ý nghĩa khác nhau: ăn chay để chuẩn bị cho
một ngày đại lễ, để tự kềm chế bản thân, để nâng đỡ lời cầu nguyện.
Ăn chay cũng giúp thanh tẩy bản thân khỏi những lạm dụng và tội lỗi.
Những ý nghĩa này thành động lực đưa tới truyền thống chay tịnh
trong Mùa Chay. Một động lực khác cũng góp phần trong truyền thống
chay tịnh là: làm phước. Làm phước là trao tặng cho người thiếu thốn
những gì ta dành dụm được nhờ ăn chay và kiêng thịt, hoặc cho đi
phần thặng dư.
Ăn
chay và kiêng thịt thuở đầu là những thực hành tự nguyện. Sau dần
thành nghiêm nhặt và thành quy định của Giáo Hội. Từ những năm 400
tới 800. Giáo dân chỉ ăn một bữa mỗi ngày thường vào buổi chiều tùy
tập tục địa phương. Phải cữ những thức ăn như thịt, cá tươi, rượu.
Nhiều nơi giáo dân phải cữ cả trứng và những sản phẩm từ sữa. Từ đầu
thế kỷ 10, giáo dân có thói quen khi ăn chay chỉ ăn bữa trưa. Thế kỷ
14, giáo dân được ăn thêm một bữa nhẹ vào buổi chiều. Thời Trung Cổ
luật cấm ăn cá và các sản phẩm từ sữa bị hủy bỏ.
Quy
chế ăn chay kiêng thịt khá nhiệm nhặt còn hiệu lực mãi tới 1966.
Giáo dân từ 21 đến 59 tuổi chỉ được ăn một bữa chính suốt cả Mùa
Chay, trừ ngày Chúa nhật. Tuy nhiên ta cũng được phép dùng hai bữa
phụ khác không có thịt, để có đủ sức khỏe; nhưng hai bữa này cộng
lại phải kém hơn một bữa ăn no đủ. Việc ăn chay đi kèm với kiêng
thịt, nước cốt thịt, thịt xay vào Thứ Tư Lễ Tro và tất cả các thứ
Sáu (luật kiêng thịt áp dụng với giáo dân từ 7 tuổi trở lên). Vào
những ngày thường trong Mùa Chay, chỉ được ăn thịt trong bữa chính.
Những việc sám hối phổ thông
Những
hình thức sám hối khác không được Giáo Hội quy định nhưng đã phổ
thông trong nhiều thế kỷ nay. Phần lớn là những hình thức tư riêng
trong các gia đình nhưng đang được nhiều tín hữu thực hành: không ăn
món tráng miệng, kẹo bánh, nước ngọt, rượu. Ngoài ra, còn việc để
dành tiền tặng người nghèo, hạn chế xem phim ảnh, truyền hình cũng
là thái độ chay tịnh tốt đẹp.
Đàng Thánh Giá
Mùa
Chay, giáo dân thường đi đàng thánh giá. Ngược dòng lịch sử, ta biết
vào thời Thập Tự Quân (1095-1270) nhiều giáo dân có thói quen đi
hành hương Đất Thánh và đi bộ theo bước chân Chúa Giêsu lên đồi
Canvê. Trong hai thế kỷ tiếp theo, sau khi người Hồi giáo tái chiếm
Đất Thánh, những cuộc hành hương tại đây rất nguy hiểm. Thời gian
này, để thay thế việc hành hương, khắp Âu Châu giáo dân thiết lập
những chặng đàng thánh giá ngoài trời, những chặng này nêu lên những
biến cố thương đau dựa theo Thánh Kinh hay truyền thống về con đường
thập giá của Chúa Giêsu. Giữa thế kỷ 18, những chặng đàng thánh giá
được phép thiết lập ngay bên trong nhà thờ và thành nét đặc trưng
của các nhà thờ Công Giáo. Vào những năm 1960, các nhà thờ thường
thêm vào chặng thứ 15: Chúa Phục Sinh.
Đầu
thập niên 60, Giáo Hội chú trọng tới mặt tích cực của quy luật Mùa
Chay và những công trình bác ái, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã chính
thức chuẩn nhận chiều hướng này qua Tông Huấn Paenitemini. Theo đó,
tín hữu chỉ buộc kiêng thịt vào Thứ Tư Lễ Tro và các thứ Sáu trong
Mùa Chay. Việc ăn chay chỉ buộc vào Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Thánh.
Các tín hữu cần lưu ý các hình thức chay tịnh tự nguyện. Những định
hướng chung trong tinh thần Mùa Chay vẫn đề cao ý nghĩa bí tích Phép
Rửa, cuộc trở về của bản thân, sám hối và sống mầu nhiệm thương khó,
tử nạn của Chúa Giêsu.
Tuần lễ Thánh
Ý
nghĩa và nghi thức trong tuần lễ Thánh theo sát những biến cố lịch
sử. Giáo Hội Công Giáo Đông Phương mệnh danh đây là tuần lễ của Ơn
Cứu độ. Tên gọi này cũng làm nổi bật ý nghĩa của Tuần Thánh.
Tuần
Thánh là trung tâm năm phụng vụ. Những nghi lễ chính thức và những
truyền thống của Giáo Hội nhắc nhớ và hiện thực hóa cuộc Vượt Qua
của Chúa Giêsu: đi qua cái chết nhục nhằn để đạt tới cuộc sống mới
vinh quang. Theo đó, con người và mọi tạo vật cũng được vượt qua với
Ngài.
Những
nghi thức chính yếu, trước tiên được cử hành ở Giêrusalem. Ở đây các
tín hữu được sống giữa khung cảnh thực nơi xảy ra các biến cố lịch
sử cuộc đời Chúa Giêsu, cuộc thương khó, cái chết và cuộc Phục Sinh
của Ngài. Năm 313 khi đạo Chúa được công khai thừa nhận, các tín hữu
đã thanh tẩy công khai về tụ họp tại Giêrusalem hoặc gần Giêrusalem
trong ngày kỷ niệm những biến cố trọng đại, tại chính nơi theo
truyền thống là những “nơi thánh.” Họ cảm nghiệm sống động những
biến cố đó. Họ hát, tuyên đọc những truyện tích (kể lại bài thương
khó), đi rước kiệu và canh thức. Nhiều truyền thống tôn giáo cổ xưa
về Tuần Thánh và Lễ Phục Sinh được Egeria viết lại chi tiết trong
nhật ký của chị. Chị là một lữ khách hành hương từ miền Tây Bắc Tây
Ban Nha tới Đất Thánh vào năm 381-384. Những nghi thức Tuần Thánh
được phổ biến khắp Châu Âu thời đó, qua những khách hành hương Đất
Thánh như Egeria. Với thời gian, những nghi thức này được Giáo Hội
đón nhận và trở nên nghi thức chính thức của Giáo Hội: nghi thức
“Tuần Thánh”!
Mầu nhiệm Vượt Qua
Ban
đầu Giáo Hội cử hành Lễ Vượt Qua như một mầu nhiệm thống nhứt, gồm
mầu nhiệm cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Đức Kitô. Giáo Hội không
phân chia từng ngày trong Tam Nhật Vượt Qua để tưởng niệm riêng từng
mầu nhiệm. Ngày lễ Vượt Qua trọng đại nhất trong Kitô giáo liên kết
chặt chẽ với lễ Vượt Qua, lễ trọng đại nhất của Do Thái. Dân Do Thái
xưa được giải thoát khỏi cảnh nô lệ khi thiên thần vượt qua cửa nhà
người Do Thái để tiêu diệt các con trai đầu lòng của người Ai Cập.
Do đó việc tưởng niệm hoạt động giải phóng của Thiên Chúa trở thành
kinh nghiệm sâu sắc và nền tảng nhất của dân Do Thái.
Lễ
Vượt Qua của Do Thái là một hòa trộn hai lễ hội cổ Do Thái. Lễ hội
mùa xuân để dâng con chiên hy tế mùa xuân cho Thiên Chúa trong thời
gian du mục. Lễ hội bánh không men vào thời gian sau lưu đày ở
Aicập. Vào thế kỷ 7 trước Chúa Giáng sinh. Khi Giêrusalem trở thành
thánh cung duy nhất của dân Do Thái, hai lễ hội này hòa làm một đại
lễ: lễ Vượt Qua. Lễ Vượt Qua được mừng ngày 14 tháng Nisan (tên gọi
một tháng trong năm theo lịch Do Thái) gồm nghi thức tế chiên trong
đền thờ và bữa tiệc thánh tại các gia đình.
Chính
vào dịp lễ Vượt qua của Do Thái, Chúa Giêsu đã vượt qua cuộc thương
khó và sự chết để đạt tới cuộc sống mới. Cuộc vượt qua này cũng là
hoạt động thần linh của Chúa để cứu cả nhân loại và các thụ tạo khỏi
trầm luân trong vực thẳm của sự chết.
Tam Nhật Vượt Qua
Thuở
Giáo Hội sơ khai chưa có Tuần Lễ Thánh, mầu nhiệm Vượt Qua được mừng
trong một ngày: Canh Thức Phục Sinh. Lễ mừng bắt đầu từ lúc hoàng
hôn ngày Sa-bát và kéo dài đến bình minh ngày thứ nhất trong tuần
(Chúa Nhựt). Tới thế kỷ 5, mầu nhiệm được tưởng niệm trong ba ngày
như nghi thức được cử hành ở Giêrusalem. Ba ngày tưởng niệm này mệnh
danh là Tam Nhật Vượt Qua từ Thứ Sáu Thánh đến sáng Chúa Nhựt Phục
Sinh. Tam Nhật Vượt Qua tưởng niệm cái chết, cuộc mai táng và biến
cố Phục Sinh. (Thời gian từ Thứ Sáu tới Chúa Nhựt được tính là ba
ngày theo lối tính của Do Thái: một ngày tính từ lúc mặt trời lặn
của buổi chiều hôm trước). Về sau Thứ Năm Thánh cũng được nhập vào
Tam Nhật Vượt Qua.
Sau
cuộc bách hại Kitô giáo, các hoàng đế theo đạo đã cấm làm việc và
vui chơi dưới mọi hình thức trong Tuần Thánh. Thuở đó cũng có tập
tục ân xá, phóng thích các tù nhân vào dịp này. Với các Kitô hữu,
Tam Nhật Vượt Qua được coi như những ngày linh thánh nhất trong năm.
Chúa Nhật Lễ Lá
Tuần
Thánh bắt đầu bằng Chúa Nhật Lễ Lá, ngày nay Giáo Hội gọi là Chúa
Nhật Thương Khó. Trong phụng vụ Chúa Nhật này, phần đầu lễ có nghi
thức làm phép lá và rước lá để nhớ ngày Chúa Giêsu bước vào
Giêrusalem vinh quang. Tại đây dân chúng cầm cành lá tung hô Chúa.
Tiếp theo trong thánh lễ, là phần tuyên đọc bài thương khó. Rõ ràng
phụng vụ ngày lễ lá muốn chú trọng cuộc thương khó của Chúa Giêsu
hơn cuộc tiếp đón mà dân Giêrusalem dành cho Chúa. Nhìn chung, Giáo
Hội muốn chú trọng tới ý nghĩa của Tuần Thánh hơn là giới thiệu một
tiến trình lịch sử chính xác của những biến cố cứu độ. Ngày lễ lá
được coi là bước đầu trong chặng đường vượt qua của Chúa.
Riêng
tại Do Thái, vào Lễ Lá dân chúng thường xếp hàng đi kiệu trên con
đường từ ngôi làng nhỏ Bêtania vào thành phố Giêrusalem theo vết
chân Chúa xưa. Họ đi rước, tay mang tàu lá thiên tuế hoặc một nhánh
ô-liu, một loài cây thường gặp nhất ở vùng Palestin (Mat 21,18)
(ngày nay, tùy địa phương, giáo dân có thể cầm nhành dương liễu,
cành đào, lá dừa, nhánh thông... để đi kiệu lá).
Những ngày chuẩn bị
Thứ
hai, ba, tư trong Tuần Thánh là những ngày chuẩn bị cho Tam Nhật
Vượt Qua. Theo truyền thống, vào những ngày này, giáo dân thường tìm
đến
toà
cáo giải lãnh bí tích Hòa Giải để tâm hồn bình an bước vào những
ngày đại lễ.
Xưng tội rước lễ mùa Phục Sinh
Thời
Trung Cổ, xuất hiện khuynh hướng từ chối đón nhận bí tích Thánh Thể.
Họ suy nghĩ Thánh Thể quá cao sang, con người chỉ nên chiêm ngắm và
tôn thờ hơn là “cầm lấy mà ăn.” Do đó nhiều người trở thành xa cách
Thánh Thể. Công Đồng Latêranô 1215 dạy giáo dân phải rước lễ ít là
một lần mỗi năm vào Chúa Nhựt Phục Sinh. Từ giáo huấn này, hôm nay
Giáo Hội đòi các tín hữu phải rước lễ mùa Phục Sinh (mùa Phục Sinh
kéo dài từ Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay đến Lễ Chúa Ba Ngôi).
Lãnh
bí tích Hòa Giải cũng là bổn phận của người tín hữu trong mùa Phục
Sinh. Giáo Luật hiện hành qui định (khoản 989): mọi tín hữu tới tuổi
trưởng thành ít nhất phải xưng thú tội nặng một năm ít nhất một lần.
Rõ ràng vào thế kỷ 8 đã hình thành việc xưng thú cá nhân trong bí
tích Hòa Giải. Thời này, có việc xá giải cho các hối nhân phạm tội
công khai.
Thứ Năm Thánh
Thứ
Năm Thánh bắt đầu Tam Nhật Vượt Qua. Ban đầu, Tam Nhật chỉ gồm Thứ
Sáu Thánh và Thứ Bảy Thánh (theo cách tính của người Do Thái là ba
ngày). Sang thế kỷ 4 gồm thêm ngày Thứ Năm Thánh. Trước đó Thứ Năm
Thánh có tên là thứ năm Lễ Tiệc Ly. Ngày này tưởng niệm bữa tiệc ly
của Chúa và kỷ niệm Chúa lập bí tích Thánh Thể. Và thứ năm này cũng
có tên khác là thứ năm của giới răn mới: “Thày ban cho anh em một
giới răn mới” (Ga 13,34). Trong nghi lễ thứ năm có nghi thức rửa
chân, để nhớ mãi giới luật tình yêu Chúa đã dạy trong đêm tiệc ly
này.
Nguyên thủy Thứ Năm Thánh chỉ là ngày chuẩn bị lễ mừng mầu nhiệm
Vượt Qua. Vào ngày này, các hối nhân được xá giải và tái nhập vào
cộng đoàn để họ được tham dự vào lễ Vượt Qua. Từ hôm nay, dầu thánh
cũ bị hủy bỏ, các nhà thờ sẽ sử dụng dầu thánh mới để cử hành bí
tích Thánh Thể và Thêm Sức vào đêm Phục Sinh.
Truyền thống cử hành nghi thức Lễ Tiệc Ly tại Giêrusalem, là địa
điểm và thời điểm tiến hành bữa tiệc ly của Chúa theo tương truyền.
Về sau cả Giáo Hội đã áp dụng nghi thức Thứ Năm Thánh tương tự
truyền thống ở Giêrusalem. Thứ Năm Thánh tưởng niệm Chúa lập bí tích
Thánh Thể. Màu sắc, khung cảnh hôm nay rất rực rỡ. Kinh Vinh Danh đã
vắng lặng từ Thứ Tư Lễ Tro nay lại vang lên rộn rã. Nhà tạm được để
trống sau Thánh Lễ. Bánh thánh được truyền phép nhiều hơn để giáo
dân rước lễ hôm nay và hôm sau. Để tưởng niệm cuộc thương khó nhục
nhã, đớn đau, kể từ sau Kinh Vinh Danh ngày thứ năm, tất cả đờn
chuông sẽ vắng lặng. Tập tục này có từ thế kỷ 9.
Nghi thức rửa chân
Nghi
thức rửa chân trong Thánh Lễ hôm nay được chính chủ tế cử hành để
học và sống bài học khiêm nhu, phục vụ của Chúa trong bữa tiệc ly.
Nghi thức này được cử hành rải rác tại một vài địa phương hồi thế kỷ
5 và đến thế kỷ 12 đã phổ biến trong toàn Giáo Hội. Theo tập tục
chung sẽ có 12 người được chọn rộng rãi trong giáo dân hoặc chọn
trong những người đứng đầu các xóm họ để được “rửa chân.” Một số nơi
chọn “người được rửa chân” từ những người nghèo hèn, những người bị
xã hội bỏ rơi...
Nhà tạm suy tôn Thánh Thể
Cuối
Thánh Lễ, Mình Thánh Chúa còn lại sau rước lễ sẽ được đưa tới nhà
tạm suy tôn Thánh Thể. Theo truyền thống, các giáo hữu sẽ thay nhau
cầu nguyện và tôn thờ trước Thánh Thể tới nửa đêm.
Lễ
truyền dầu
Từ
rất sớm Thánh Lễ Truyền Dầu đã cử hành trong nhiều địa phận. Hôm nay
ngày Thứ Năm Thánh, khắp các địa phận, tại nhà thờ chính
toà
hoặc một nhà thờ trong giáo phận, đức giám mục địa phận cùng với các
linh mục, giáo sĩ, tu sĩ và đại diện giáo dân tụ họp để cử hành
Thánh Lễ Truyền Dầu theo một nghi thức long trọng. Có ba thứ dầu
được thánh hiến để sử dụng trong một số bí tích tại các nhà thờ:
-
dầu dự tòng: dùng để xức cho dự tòng khi họ được chuẩn bị lãnh
bí tích Phép Rửa.
-
dầu bệnh nhân: dùng trong bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân.
-
dầu rửa tội và thêm sức: dùng trong bí tích Phép Rửa và Thêm
Sức.
Thứ Sáu Thánh
Thứ
Sáu Thánh là ngày kỷ niệm cái chết của Đức Giêsu trên thập giá ngoài
thành Giêrusalem. Những khoảnh khắc hôm nay sẽ được hoàn thành trọn
vẹn vào ngày hôm sau - khi đêm tối Thứ Bảy nhường chỗ cho ngày Chủ
nhật và khi sự chết chuyển hóa thành cuộc Phục Sinh. Nói “Thứ Sáu
Thánh” là nhằm để nhấn mạnh giá trị cứu độ của biến cố lịch sử là
cái chết thập giá của Đức Giêsu. Trong suốt giòng lịch sử của nó,
ngày Thứ Sáu Thánh bao giờ cũng mang sắc thái trầm lặng u buồn và
thương tiếc Đức Giêsu chịu đóng đanh và chịu chết.
Đây
là ngày duy nhất trong năm không có cử hành Bí Tích Thánh Thể. Trong
các thế kỷ đầu tiên, người ta không cử hành Thánh Thể vào những ngày
trong tuần. Tập tục này càng mang ý nghĩa đặc biệt đối với Thứ Sáu
Thánh khi mà chiều kích hy tế của Thánh Lễ bắt đầu được nhấn mạnh.
Việc không cử hành Thánh Thể nhằm nêu bật hành vi hiến tế của Đức
Giêsu trên thập giá. Vì vậy, Giáo Hội nhấn mạnh một phụng vụ Lời
Chúa bao gồm một trình thuật khổ nạn và những thánh vịnh tiên báo
cuộc thương khó của Đức Giêsu.
Phụng
vụ Thứ Sáu Thánh của Giáo Hội diễn ra trong khoảng giữa buổi chiều.
Đây là thời gian lý tưởng nhất để đọc kinh thần vụ trong các nhà thờ
xứ đạo hồi cổ thời - khi chưa có thói quen dâng Thánh Lễ hằng ngày.
Trọng tâm của cử hành được tập trung vào việc đọc Thánh Kinh và cầu
nguyện. Các bài đọc, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, xoáy vào cuộc khổ nạn
và cái chết của Đức Giêsu. Các lời nguyện vốn xuất phát từ những lời
nguyện chung cổ xưa, nay trở thành một phần của mọi Thánh Lễ - tức
Lời Nguyện Tín Hữu.
Suy tôn thánh giá
Vào
cuối thế kỷ 4, việc suy tôn thánh giá được đưa vào truyền thống Thứ
Sáu Thánh ở Giêrusalem. Truyền thuyết kể rằng trước kia bà Helen, mẹ
của Constantine, vị hoàng đế Kitô hữu đầu tiên, đã khám phá thấy tại
khu vực Giêrusalem chính cây thập tự mà người ta đã dùng để đóng
đanh Đức Giêsu trên đó. Thế là hằng năm, tại Giêrusalem, thánh tích
này được đưa ra để các tín hữu đến hôn kính và suy tôn. Về sau, cả
thánh tích lẫn thói quen này được phổ biến rộng ra khắp đế quốc
Rôma. Việc thực hành này được đưa vào phụng vụ Rôma hồi thế kỷ 8.
Một giòng người nối đuôi nhau chầm chậm tiến lên hôn kính một cây
thánh giá trên tay vị thừa tác viên, đó là hình ảnh vẫn còn mang nét
đặc thù của việc cử hành ngày Thứ Sáu Thánh trong thời đại chúng ta
hôm nay. Cho đến gần đây, người ta vẫn còn duy trì thói quen bước
tới hôn kính thánh giá bằng chân trần, bái gối nhiều lần trước khi
đến chỗ thánh giá và cung kính hôn nó.
Thánh Lễ không có truyền phép Thánh Thể
Trong
thời Trung Cổ, việc rước lễ (chỉ thuần túy rước lễ thôi) của phụng
vụ Thứ Sáu Thánh đã chuyển biến thành “Thánh Lễ” không có truyền
phép Thánh Thể (tức “Thánh Lễ” với bánh đã được truyền phép ngày hôm
trước). Nghi thức này bắt chước một dạng Thánh Lễ được cử hành không
có kinh nguyện Thánh Thể. Ban đầu, giáo dân ngưng không rước lễ
trong các cử hành Thứ Sáu Thánh. Vì vậy, chỉ có linh mục được rước
lễ vào ngày này. Năm 1955, nghi thức truyền thống được tái lập lại:
bắt đầu là phụng vụ Lời Chúa, rồi suy tôn thánh giá và sau đó cả
cộng đoàn rước lễ.
Việc giữ chay
Việc
giữ chay Thứ Sáu Thánh diễn tả sự đền tội cá nhân và nỗi đau buồn về
cái chết của Đức Giêsu. Ngay từ thế kỷ thứ 2, truyền thống chay tịnh
(đôi khi kiêng hết mọi thức ăn thức uống) đã được thực hành trong
bốn mươi tiếng đồng hồ. Việc giữ chay này chuẩn bị cho niềm vui Phục
Sinh và luôn luôn là một đặc nét của ngày Thứ Sáu Thánh. Tại nhiều
nơi trong Giáo Hội, việc giữ chay này được thực hành rất nghiêm
ngặt, nghiêm ngặt hơn cả sự qui định chính thức của Giáo Hội. Ngày
nay chúng ta vẫn còn thấy rất rõ các dấu vết của truyền thống nghiêm
ngặt ấy. Trong ngày hôm nay, một số gia đình không chỉ kiêng thịt
(như qui định của Giáo Hội) mà còn kiêng cả những thức ăn thông
thường khác như sữa, bơ, phô mai... Một số tập tục kỳ lạ - đối với
con mắt của người không quen - vẫn còn rất phổ biến đến tận thời
nay, chẳng hạn, bánh được cố tình nướng đến cháy khét.
Trong
nhiều gia đình, một bầu khí thinh lặng phủ trùm. Người ta nhịn xem
tivi, nhịn nghe radio, nhịn thưởng thức nhạc đời. Cho đến gần đây,
người tín hữu vẫn coi trọng tinh thần ngày Thứ Sáu Thánh trên mọi
sắc thái văn hóa thế tục. Phần lớn các cơ sở buôn bán làm ăn đều
đóng cửa từ giữa trưa cho đến 3 giờ chiều. Ngày nay tập tục này chỉ
còn được nhận thấy ở rải rác vài nơi.
Ba
Giờ tưởng niệm
Nhiều
tín hữu vẫn còn nhớ việc cử hành Ba Giờ Tưởng Niệm của ngày Thứ Sáu
Thánh trong nhà thờ xứ đạo của mình. Truyền thống này đã được hội
nhập vào phụng vụ chính thức của ngày Thứ Sáu Thánh và được kéo dài
trong ba giờ, tương ứng với khoảng thời gian mà Đức Giêsu đã trải
qua trên cây thánh giá. Việc cử hành này bao gồm việc đọc kinh
nguyện chung và các việc đạo đức như đi đàng thánh giá, lần hạt Mân
Côi, suy niệm về những lời nói cuối cùng của Đức Giêsu trước khi tắt
thờ. Những việc đạo đức này vẫn còn khá phổ biến tại nhiều giáo xứ.
Xuất phát từ Lima, Pêru vào năm 1732, truyền thống này đã lan đến
các quốc gia Mỹ la tinh khác, rồi đến Anh, Ý và Hoa Kỳ. Còn các nơi
khác trên thế giới, thực hành này không mấy phổ biến.
So
với các tập tục ở các nơi khác, truyền thống cử hành Ba Giờ Tưởng
Niệm xem ra nhẹ và thoáng hơn nhiều. Ở một số nước, nhất là ở Mỹ la
tinh, người ta có thói quen tổ chức một đám táng vào ngày Thứ Sáu
Thánh này. Thi hài được khiêng đi là một bức tượng di hài của Đức
Giêsu. Điểm đến là một “mồ huyệt,” nơi người ta sẽ tiếp tục đến
viếng như thể viếng một người thân của mình mới qua đời.
CANH THỨC PHỤC SINH
Từ
giữa màn đêm mới vừa buông xuống, một ánh lửa bén lên bên ngoài
thánh đường. Ngọn lửa ấy được dùng để thắp cây Nến Phục Sinh, một
cây nến đính các dấu biểu hiệu của con số chỉ năm dương lịch hiện
tại, của thần tính Đức Kitô và của cuộc khổ nạn vinh quang của Ngài.
Cây nến được trịnh trọng đem vào giữa đám đông đang qui tụ. Tại đây,
cây nến được giới thiệu bằng lời ca hân hoan: “Ánh sáng Chúa Kitô...
Tạ ơn Chúa.” Hàng trăm cây nến của các tín hữu tham dự được thắp
sáng lên từ ngọn lửa của một cây nến duy nhất này, cho đến khi cả
thánh đường chan hòa ánh sáng mới. Đứng trước cây Nến Phục Sinh đang
bùng cháy, người lĩnh xướng cất tiếng hát bài Exultet - một bài ca
cổ điển và hùng tráng công bố Tin Mừng Phục Sinh. Tiếp theo là các
bài đọc Thánh Kinh đầy ấn tượng về nước và về công cuộc sáng tạo
mới. Kinh Cầu Các Thánh được hát lên trong khi giếng nước Phục Sinh
được làm phép bằng dầu thánh mới được thánh hiến chỉ vài hôm trước.
Những người dự tòng bước tới, tuyên hứa các lời hứa Phép Rửa hòa
trong tiếng nói đồng tình của toàn thể cộng đoàn vây quanh họ; và
Phép Rửa được cử hành. Chuông bắt đầu đổ liên hồi. Hoa đèn rực rỡ
cung thánh. Bài ca Alleluia uy phong vút lên sau sáu tuần lễ im bặt.
Đức Giêsu Kitô đã sống lại từ cõi chết!
Không
một khoảnh khắc nào khác của năm phụng vụ uy hùng và súc tích ý
nghĩa cho bằng Đêm Canh Thức Vọng Phục Sinh này. Đây là đêm mẹ của
mọi đêm. Đây là trái tim của Kitô giáo. Chúa đã sống lại trong đêm
này.
Những
giờ khắc ban ngày của ngày Thứ Bảy Thánh tiếp nối bầu khí mặc niệm
của Thứ Sáu Thánh - và ngay từ những thế kỷ đầu, những giờ khắc ấy
được xem như thời gian để thinh lặng và chay tịnh. Bản thân ngày Thứ
Bảy Thánh không có phụng vụ hay truyền thống tôn giáo nào. Tất cả
bầu khí nhằm sửa soạn để đón màn đêm buông xuống và cuộc cử hành
mừng Chúa sống lại.
Canh thức Phục Sinh
Ngay
từ thế hệ Kitô hữu đầu tiên, đã có việc cử hành hằng năm mừng Chúa
sống lại. Trong suốt ba thế kỷ đầu, đây là lễ hội duy nhất được ghi
nhận trong Giáo Hội. Việc cử hành nguyên thủy - tiền thân của Lễ
Phục Sinh sau này - được thực hiện bằng hình thức một cuộc canh thức
(vigilia trong tiếng La tinh có nghĩa là “sự tỉnh thức” hay “đợi
chờ”). Thật dễ hiểu tại sao các Kitô hữu đã chọn những giờ khắc của
ban đêm để cử hành cảm nghiệm tôn giáo của mình về cuộc khải thắng
của Đức Kitô trên sự chết và tội lỗi - đồng thời đó cũng là cuộc
khải thắng của chính họ, cùng với Đức Kitô. Chính trong những giờ
khắc của đêm tối trước ngày thứ nhất trong tuần (ngày Chúa Nhật) mà
mầu nhiệm này đã diễn ra. (Matthêu 28,11; Máccô 16,1; Luca 24,1;
Gioan 20,1).
Vào
thời Giáo Hội sơ khai, có một niềm tin rất phổ biến rằng Chúa Phục
Sinh sẽ trở lại trong chính những giờ khắc đêm tối này của Đêm Canh
Thức Phục Sinh. Vì vậy, điều đương nhiên là tất cả mọi người cùng có
mặt và chờ đợi. Đây sẽ là sự trở lại cuối cùng trong vinh quang của
Người, và ngày nay trong mỗi Thánh Lễ, lời loan báo về sự cáo chung
của thời gian vẫn còn vang lên để xác tín: “Đức Kitô đã chết, đã
sống lại và sẽ đến!”.
Ngoại
trừ một số thay đổi, nhất là thay đổi về thời lượng, nghi thức đã
được canh tân ngày nay phản ảnh rõ chính nghi thức của những thế kỷ
ban đầu. Vừa khi sao hôm xuất hiện trên bầu trời, các nghi thức bắt
đầu được cử hành và kéo dài suốt cả đêm. Những khoảnh khắc đầu tiên
dành cho việc đọc các bài đọc Thánh Kinh và những lời nguyện. Các
bài đọc Thánh Kinh - thường gồm 12 bài - nhấn mạnh ý nghĩa tiên tri
về một công cuộc sáng tạo và cứu độ mới bằng nước. Đó là những bản
văn nói về cuộc tạo dựng ban đầu, sự sa ngã, trận lụt hồng thủy, câu
chuyện sát tế Isaac, biến cố các thiên thần vượt qua cửa nhà người
Do Thái để tàn sát các con trai đầu lòng của người Ai Cập, cuộc vượt
qua Biển Đỏ và hành trình tiến vào Đất Hứa.
Khi
bóng tối đã trùm kín không gian cũng là lúc chủ đề nói trên được thể
hiện bằng nghi thức sáng tạo mới qua nước của Phép Rửa, nhất là Phép
Rửa cho người trưởng thành. Vốn là một nét đặc trưng của Đêm Canh
Thức Phục Sinh, nghi thức này bắt đầu với việc làm phép nước Phục
Sinh một cách trọng thể. Trong khi cộng đoàn hát Kinh Cầu Các Thánh,
cây Nến Phục Sinh cháy sáng được cắm vào nước, và dầu thánh cũng
được chế vào hòa lẫn với nước. Giờ đây, những người dự tòng - thường
đã được chuẩn bị từ vài năm trước - sẽ tuyên hứa từ bỏ mọi ảnh hưởng
của Satan trên con người cũ của mình; họ tuyên xưng đức tin, lãnh
nhận Phép Rửa, được xức dầu và mặc áo trắng. Vào thế kỷ thứ 5, trong
Giáo Hội Rôma có thực hiện việc xức dầu lần thứ hai do đức giám mục
- và đây chính là dạng ban đầu của bí tích Thêm Sức.
Trong
những thế kỷ đầu tiên, người ta có thói quen trao sữa và mật ong đã
được làm phép cho những người mới lãnh nhận Phép Rửa. Cử chỉ này có
ý nghĩa rằng người mới lãnh Phép Rửa là người còn non nớt trong đức
tin, gọi là tân tòng. Cử chỉ ấy cũng ám chỉ rằng họ vừa mới tiến vào
miền Đất Hứa mới “chảy tràn sữa và mật ong”. Việc thực hành nói
trên, có tầm vóc đánh dấu một mốc điểm quan trọng trong cả đời sống,
vốn là một thực hành được vay mượn từ các thần thoại ngoại giáo.
Cuối
cùng, gần lúc tờ mờ sáng, những người mới lãnh Phép Rửa sẽ rước
Thánh Thể lần đầu - cùng với cộng đoàn tín hữu.
Lửa Phục Sinh
Nghi
thức làm phép và thắp lửa Phục Sinh đầy ấn tượng, vẫn còn được duy
trì cho đến ngày nay để bắt đầu mỗi đêm Vọng Phục Sinh, vốn không hề
được nhận thấy trong nghi thức cổ thời. Trước kỷ nguyên Kitô giáo,
người Germanic đã có thói quen đốt lửa tôn vinh thần minh để loan
báo mùa xuân đã bắt đầu, và để cầu xin cho mùa màng được bội thu.
Khi Kitô giáo được truyền bá đến với các sắc dân này, Giáo Hội cấm
việc đốt lửa đầu xuân vì cho rằng đó là một thực hành ngoại giáo.
Tuy nhiên, trong các thế kỷ 6 và 7, các nhà thừa sai người Ailen đã
mang vào lục địa châu Âu một truyền thống làm Phép Rửa bên ngoài
thánh đường vào tối Thứ Bảy Thánh. Truyền thống này đầu tiên do
thánh Patrick khai mào để phản ứng lại ảnh hưởng của tập tục đốt lửa
đầu xuân đang phổ biến giữa các tăng lữ vùng Celtic. Rồi truyền
thống này trở thành quen thuộc trong đế quốc Caroling, lan tràn đến
Rôma, và cuối cùng được đưa vào phụng vụ Đêm Canh Thức Phục Sinh.
Nến Phục Sinh
Việc
thắp Nến Phục Sinh dường như bắt nguồn từ nghi thức Lucernare được
thực hiện hằng ngày hồi cổ thời (“lucernare” có nghĩa là “thắp đèn”)
mỗi khi màn đêm buông xuống. Còn truyền thống thắp nến trên tay
những người hiện diện thì bắt đầu ở Rôma trong các thế kỷ đầu tiên.
Bóng tối của Đêm Canh Thức được tràn ngập bởi áng sáng muôn ngọn nến
tượng trưng cho Đức Kitô sống lại.
Trong
vương quốc Frankish, nhiều ý nghĩa biểu tượng được gán thêm vào cho
cây Nến Phục Sinh và tiếp tục đến ngày hôm nay, tùy theo sự thẩm
định của vị mục tử. Một dấu thánh giá được khắc hay vẽ lên cây nến,
kèm theo lời công bố: “Đức Kitô hôm qua và hôm nay, nguyên thủy và
cùng đích,” rồi hai mẫu tự đầu tiên và cuối cùng của tiếng Hi Lạp
được khắc lên: “Alpha và Omega.” Các con số chỉ năm dương lịch hiện
tại được ghi nơi bốn góc tạo ra bởi hình thánh giá: “Thời gian là
của Chúa, và mọi thế hệ là của Chúa; vinh quang và quyền lực là của
Chúa qua mọi thế hệ đến muôn đời. Amen.” Bốn hạt trầm hương đính sẵn
với những chiếc đinh bằng sáp màu đỏ được gắn lên bốn đỉnh thánh
giá, hạt thứ năm được đính vào chỗ tréo ngang - với lời nói kèm
theo: “Nhờ các dấu thương tích thánh và vinh hiển của Ngài... xin
Chúa Kitô. .. gìn giữ.... và bảo toàn chúng con. Amen.”
Phụng vụ buổi sáng Thứ Bảy Thánh
Khoảng đầu thế kỷ thứ 5, con số người lớn lãnh Phép Rửa giảm dần và
việc rửa tội trẻ em trở thành điều thông thường. Vì Đêm Canh Thức
Phục Sinh không còn cần quá nhiều giờ như trước nữa, nên vào thế kỷ
6 việc cử hành Thánh Thể được bắt đầu trước lúc nửa đêm, đến giữa
thế kỷ 8 thì việc cử hành này được lui về sớm hơn nữa - ngay sau khi
trời sập tối. Trong thế kỷ thứ 6, một Thánh Lễ cử hành vào buổi sáng
Chủ Nhật Phục Sinh đã trở thành thông thường. Càng về sau, việc canh
thức càng được cử hành sớm hơn nữa. Trong Lễ Qui của Đức Piô V
(1570), luật Giáo Hội qui định việc Canh Thức thành một phụng vụ
sáng Thứ Bảy Thánh, lưu giữ nguyên hình thức nguyên thủy của nó, chỉ
trừ có việc cử hành Phép Rửa. Vì dài dòng - thường là vài tiếng đồng
hồ - và cũng vì đã đánh mất ý nghĩa gốc của nó là cử hành mừng Chúa
Phục Sinh, việc Canh Thức Phục Sinh không được mấy tín hữu tham dự.
Không phải là chuyện quá xa lạ việc các giáo hữu tà tà đến vào lúc
sắp vãn các nghi thức, đem theo bình chứa để lấy một ít nước Phục
Sinh mới về nhà sử dụng như một á bí tích. Phần đông giáo hữu xem
Thánh Lễ sáng Chủ nhật Phục Sinh là việc cử hành chính yếu mừng Chúa
sống lại.
Canh tân việc Canh Thức Phục Sinh
Ngày
nay, việc Canh Thức Phục Sinh đã lấy lại chỗ đứng xứng đáng của nó
như nghi thức quan trọng bậc nhất của cả năm và như cuộc cử hành thứ
nhất để mừng Chúa sống lại. Đầu tiên, vào năm 1951, sự canh tân này
được áp dụng thử nghiệm. Đến năm 1955, nó được thiết định dứt khoát.
Đêm Canh Thức Phục Sinh trong hình thức canh tân cũng gần giống hoàn
toàn với hình thức nguyên thủy của nó trong các thế kỷ ban đầu,
ngoại trừ là các nghi thức giờ đây chỉ kéo dài chừng hai tiếng đồng
hồ thay vì suốt cả đêm. Các nghi thức bao gồm bốn phần rõ rệt: nghi
thức làm phép và rước Nến Phục Sinh, phụng vụ Lời Chúa, cử hành Phép
Rửa, và cử hành Thánh Thể.
Sự
canh tân việc Canh Thức Phục Sinh đã đem lại ấn tượng cơ hồ như có
hai Lễ Phục Sinh khác nhau. Tuy nhiên, mỗi năm càng có nhiều tín hữu
ý thức cuộc canh thức Phục Sinh theo nguồn gốc của nó hơn: đây là
đêm mẹ của mọi đêm và là cuộc cử hành thứ nhất để mừng Chúa sống
lại. Sự canh tân trong việc dạy giáo lý cho người lớn dự tòng ở các
giáo xứ cũng đã tái lập một nét đặc biệt cho Đêm Canh Thức Phục Sinh
sau nhiều thế kỷ bị đánh mất: đó là việc cử hành Phép Rửa cho người
trưởng thành. Đối với nhiều giáo hữu khác, Thánh Lễ sáng Chủ Nhật
Phục Sinh vẫn là dịp chính để mừng Chúa sống lại.
Để có
được những nghi thức mạch lạc và trang trọng cho đêm Canh Thức Phục
Sinh, cần phải có sự chuẩn bị rộng rãi của những người hữu trách
trong giáo xứ và của nhiều giáo hữu khác. Phải chuẩn bị sẵn lửa củi,
nước, trầm hương, dầu thánh và các thứ trang hoàng thánh đường; nghi
thức phụng vụ phải được dợt đi dợt lại. Còn những người lớn dự tòng
thì bước vào những khoảnh khắc cuối cùng của quá trình sửa soạn lãnh
nhận Phép Rửa.
Cho
tới những thập niên gần đây, ngày Thứ Bảy Thánh là ngày giữ chay và
kiêng nhịn một phần (chỉ được ăn thịt trong bữa ăn chính thôi) để
sửa soạn đón mừng lễ trọng nhất trong năm. Quy định giữ chay này vẫn
được duy trì ngay cả vào thời mà cuộc Canh Thức Phục Sinh long trọng
được cử hành vào sáng ngày Thứ Bảy Thánh, và do đó đã tràn ngập bầu
khí vui mừng của Lễ Phục Sinh rồi. Điều ấy cho thấy rằng mầu nhiệm
Phục Sinh vẫn gắn kết chặt chẽ với những giờ khắc của buổi tối hôm
trước và buổi sáng sớm ngày Chúa Nhựt.
Trong
những năm gần đây, truyền thống giữ chay này đã được tái lập cùng
với sự canh tân việc dạy giáo lý dự tòng cho người lớn. Những người
lớn dự tòng chuẩn bị lãnh Phép Rửa trong đêm Canh Thức Phục Sinh
thường dành ra một thời gian để tĩnh tâm kèm với việc giữ chay và
cầu nguyện trước khi đi vào với cuộc Canh Thức Phục Sinh.
Làm phép giỏ thức ăn Phục Sinh
Các
truyền thống phổ biến của ngày Thứ Bảy Thánh thường gắn liền, cách
nào đó, với việc sửa soạn mừng lễ hội Phục Sinh. Vào ngày này hoặc
trong suốt những ngày trước đó nữa, người ta chuẩn bị các thứ thức
ăn. Việc làm phép những thức ăn đặc biệt mừng Lễ Phục Sinh hiện vẫn
còn là một truyền thống phổ biến, nhất là đối với những người gốc Ba
Lan. Người ta mang các giỏ thức ăn đến nhà thờ và chúng sẽ được cha
sở ban phép lành.
Phục Sinh
Sáu
tuần lễ trôi qua thật căng thẳng. Tiếng gọi hoán cải vang lên dồn
dập. Một mùa đền tội, chẳng có chi là “thú vị” lắm! Mọi hình thức
trang trí đều bị khống chế. Các nghi thức trong Tuần Thánh vừa qua
đầy ắp tính biểu tượng. Những cành lá thiên tuế xếp lại, nhường chỗ
cho tấn kịch đau thương. Bữa Tiệc Vượt qua rộn ràng rồi cũng đến hồi
tàn, nhường chỗ cho thập giá. Và đêm qua, thập giá nhường chỗ cho
lửa mới, dầu mới, nước mới - và sự sống mới.
Rõ
ràng là một điều gì đó thật tuyệt diệu đã xảy ra khi người ta bước
vào bên trong thánh đường. Họ được chào đón bởi một thánh đường lộng
lẫy những dấu hiệu của sự sống mới: những sắc màu rực rỡ và những
đóa huệ Phục Sinh xinh tươi. Điệp khúc Alleluia vang vọng dập dìu.
Buổi sáng Phục Sinh đã đến rồi!
Đối
với nhiều tín hữu - nếu không nói là đa số - đây là cuộc cử hành
chính mừng Phục Sinh. Tuy nhiên, trong nhiều giáo xứ, cuộc cử hành
chính đã diễn ra tối hôm trước với các nghi thức Canh Thức Phục
Sinh. Thánh Lễ Phục Sinh vào sáng Chủ Nhật đã xuất hiện trong lịch
sử khi cuộc Canh Thức mừng Chúa sống lại được dời lui về buổi sáng
ngày Thứ Bảy Thánh.
Bầu
khí của buổi sáng Phục Sinh cũng âm vang lại bầu khí của đêm Canh
Thức tối hôm trước. Trong buổi sáng này, người ta tưởng niệm và cử
hành chính nền tảng của Kitô giáo: Đức Giêsu đã được Phục Sinh từ
cõi chết và Ngài là Chúa. Những ai tin và nhận lãnh Phép Rửa đều
thông dự vào cuộc Phục Sinh này để hướng tới sự sống mới. Tiêu điểm
này sẽ tiếp tục trong năm mươi ngày tiếp theo - tức mùa Phục Sinh.
Thật
dễ hiểu tại sao ngay tự ban đầu các Kitô hữu đã xem khoảnh khắc này
là khoảnh khắc linh thánh. Đây chính là khoảnh khắc kỷ niệm buổi
sáng hôm nào khi họ cảm nghiệm được rằng Ngài đã sống lại và đang
hiện diện giữa họ. Ngài đã chết vào dịp đại lễ Vượt Qua. Và sự sống
lại của Ngài đã hoàn thành trọn vẹn ý nghĩa của lễ Vượt Qua theo
nhận thức của họ trong tư cách là người Do Thái. Đó là một cuộc xuất
hành, một chuyến đi bỏ lại sau lưng ách nô lệ xưa cũ để tiến đến với
sự tự do đích thực của tâm hồn. Giêsu, Con Chiên Vượt Qua, đã bị sát
tế để đạt đến tự do này.
Sự
sống lại của Đức Kitô là dấu chỉ của những khởi đầu mới: một mùa
xuân. Ý nghĩa này vốn đã được ghi nhận trong lịch sử của lễ Vượt Qua
từ rất lâu trước cuộc Xuất Hành ra khỏi Ai Cập. Tổ tiên của người Do
Thái đã cử hành lễ hội mừng hoa quả đầu mùa bằng việc dâng tiến bánh
và ngũ cốc, và mừng lứa con đầu tiên của đàn súc vật bằng việc sát
tế chiên con. Theo sự chỉ dẫn của Môsê, những lễ hội này được kết
hợp lại trong một cuộc tưởng niệm hằng năm về cuộc trốn thoát lạ
lùng của họ ra khỏi Ai Cập, và tưởng niệm biến cố thiên thần tru
diệt đã vượt qua chứ không ghé vào nhà họ. Ngót 3000 năm và mãi đến
hôm nay, người Do Thái vẫn còn cử hành cuộc giải cứu kỳ diệu này
bằng việc nhắc lại câu chuyện ngày xưa ấy qua các bài ca, bài đọc và
những thức ăn đầy tính biểu tượng: bữa tiệc Chiên Vượt Qua. Ngày
nay, cũng như trong suốt giòng lịch sử vẫn thế, nghi thức này diễn
ra vào buổi chiều ngày mười bốn tháng Nisan theo lịch Do Thái.
Truyền thống Ngày Chủ Nhật
Chính
trong bữa tiệc Chiên của lễ Vượt Qua này mà Đức Giêsu đã cùng với
các bạn hữu Ngài cử hành buổi tối trước cuộc khổ nạn, với lời yêu
cầu rằng biến cố ấy sẽ được cử hành lại bằng một cách thức mới mẻ để
tưởng nhớ Ngài. Và họ đã thực hiện lời yêu cầu ấy trong dịp kỷ niệm
hằng tuần cuộc Phục Sinh của Ngài: ngày thứ nhất trong tuần, hay Chủ
Nhật. Đương nhiên là dịp kỷ niệm hằng năm sẽ dành được sự nhấn mạnh
nhiều hơn, với sự trang trọng đặc biệt.
Ngày Lễ Phục Sinh
Vào
thời sơ khai của Kitô giáo có nảy lên một cuộc tranh luận về việc
thiết định ngày Lễ Phục Sinh hằng năm. Một số người, thuộc khuynh
hướng Quartodecimans (từ La ngữ có nghĩa là “thứ mười bốn”) cho rằng
nên chọn đúng ngày Vượt Qua của Đức Giêsu trong lịch sử tức ngày 14
tháng Nisan - và như vậy sẽ thường rơi vào một ngày trong tuần thay
vì là Chủ Nhật. Những người khác thì cương quyết bảo vệ quan điểm
rằng đó phải luôn luôn là một ngày Chủ Nhật, vì Đức Kitô đã chỗi dậy
từ cõi chết vào ngày thứ nhất trong tuần. Cuộc tranh luận này đã trở
thành điểm ưu tiên trong chương trình nghị sự tại Công Đồng Nicêa do
Hoàng Đế Constantine triệu tập vào năm 325. Cuối cùng, ngày đó được
quyết định là ngày Chủ Nhật tiếp theo sau ngày trăng tròn đầu tiên
sau ngày xuân phân. Ở Tây phương, chỉ có Giáo Hội Celtic tại Anh là
từ chối không chấp nhận quyết định ấy cho đến năm 664.
Sự
phong phú, phì nhiêu - một ý nghĩa
Ngay
từ thuở ban đầu, Phép Rửa cho các Kitô hữu mới đã diễn ra trong nghi
thức cử hành hằng năm này. Việc thực hành này xuất hiện do có mối
liên hệ thâm sâu giữa cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu trong sự sống mới
và cuộc tái sinh của những người lãnh nhận Phép Rửa. Ý nghĩa về sự
sống mới này của Lễ Phục Sinh có liên quan tới ý nghĩa về sự phong
phú, phì nhiêu. Khi Kitô giáo bắt đầu được truyền bá, cũng có một
phong trào tôn giáo được phổ biến trong đế quốc Rôma. Phong trào này
liên quan tới những thần thoại ngoại giáo về năng lực sinh sản phong
phú. Không có mấy chứng cứ về việc Kitô giáo đã chủ ý vay mượn các
điều tin tưởng và các thực hành từ những truyền thống này. Dẫu sao,
điều tự nhiên là Kitô giáo đã nhận ảnh hưởng từ các truyền thống ấy
- cũng như nó vẫn luôn luôn chịu tác động bởi thế giới thực tế xung
quanh nó.
Một
ví dụ về chủ điểm năng lực sinh sản phong phú được ghi nhận trong
nghi thức Canh Thức Phục Sinh: sự nhấn mạnh được dành cho lửa và
nước. Đây có lẽ là một ảnh hưởng từ lễ hội xuân mừng lửa và nước của
người Rôma thời bấy giờ, một lễ hội đầy âm hưởng đề cao năng lực
sinh sản dồi dào: lửa tượng trưng cho nam tính và nước tượng trưng
cho nữ tính. Người ngoại giáo có cử hành một nghi thức trong đó một
ngọn đuốc đang cháy bùng được cắm vào nước. Cho tới thời gần đây,
việc làm phép giếng nước Phục Sinh của Giáo Hội vẫn có bao gồm ba
lần cắm cây Nến Phục Sinh đang cháy vào trong nước. Sau đó, nước
sinh sự sống này được dùng để tái sinh những người lãnh Phép Rửa.
Hiện nay, cử chỉ cắm cây nến vào nước không còn có tính bắt buộc
nữa.
Thánh Lễ Chủ Nhật Phục Sinh
Trong
Giáo Hội sơ khai không hề có việc cử hành Lễ Phục Sinh vào ngày Chủ
Nhật. Việc cử hành mà ngày nay chúng ta gọi là
mừng
Lễ Phục Sinh đã diễn ra trong đêm trước Chủ Nhật, tức đêm Canh Thức
Mừng Chúa Sống Lại. Thật vậy, Chủ Nhật Phục Sinh chính là Chủ Nhật
thứ nhất của mùa Phục Sinh, bởi lẽ Lễ Phục Sinh tự nó đã diễn ra
rồi. Thánh Lễ Chủ nhật Phục Sinh chỉ xuất hiện khi cuộc Canh Thức
Phục Sinh được cử hành sớm vào buổi sáng ngày Thứ Bảy Thánh. Không
có nghi thức đặc biệt nào gắn riêng với Thánh Lễ Chủ Nhật Phục Sinh
ngoại trừ những gì đã được cử hành hết sức trang trọng trong cuộc
Canh Thức tối hôm trước: cũng là những bài ca Mừng Chúa Phục Sinh
(nhất là điệp khúc Alleluia), cũng là việc cử hành Phép Rửa và nhắc
lại lời tuyên hứa Phép Rửa, cũng là việc rảy nước thánh trên cộng
đoàn, cũng là cờ quạt trùng giăng và những đoá huệ Phục Sinh mơn
mởn.
Không
phải tất cả các truyền thống tôn giáo gắn liền với Lễ Phục Sinh đều
có nguồn gốc Kitô giáo. Nhưng đa số các truyền thống ấy trải qua các
thế kỷ đã nhận được một sự diễn dịch theo tinh thần Kitô giáo. Sắc
thái của mùa này rõ ràng khác với sắc thái của Mùa Giáng sinh. Tuy
nhiên, niềm vui cũng rộn ràng không kém; bởi vì đất trời đã vào
xuân, bỏ lại sau lưng những tháng mùa đông lạnh giá; bởi vì người ta
cảm nghiệm được sự sống lại của riêng mình sau những nỗ lực sống mùa
chay tịnh; cũng bởi vì Mùa Chay đầy căng thẳng đã trôi qua
Con Chiên Phục Sinh
Con
Chiên bị sát tế là biểu tượng chính yếu của bữa ăn Vượt Qua. Nó tiếp
tục là biểu tượng của Đức Giêsu, Con Chiên Thiên Chúa, bị hành quyết
và được Phục Sinh từ cõi chết để đem lại tự do cho tất cả những ai ở
trong vòng nô lệ của tội lỗi và của sự mê muội về mặt tinh thần. Con
Chiên Phục Sinh đã trở thành một biểu tượng quan trọng trong nghệ
thuật Kitô giáo. Việc đưa biểu tượng này vào các kiểu trang hoàng Lễ
Phục Sinh và việc nướng bánh Phục Sinh trong hình dạng con chiên
cũng đã trở nên một truyền thống quen thuộc.
Tuần Bát Nhật Phục Sinh
Lễ
Phục Sinh không chấm dứt một cách bất thần. Nó mở ra một mùa. Cũng
như mọi đại lễ khác trong năm phụng vụ, Lễ Phục Sinh được mừng với
một Tuần Bát Nhật, một lễ hội kéo dài cả tuần lễ. Trong những thế kỷ
đầu những người lãnh Phép Rửa trong đêm Canh Thức Phục Sinh sẽ qui
tụ lại với nhau hằng ngày trong suốt Tuần Bát Nhật Phục Sinh để được
hướng dẫn thêm trong đời sống đức tin Kitô giáo. Những sự hướng dẫn
đặc biệt này được gọi là mystagogia (truyền bí pháp). Ngày nay, việc
“truyền bí pháp” này được khôi phục lại ở các giáo xứ. Một lần nữa,
nó trở thành một nếp quan trọng trong hành trình đức tin của những
người lớn mới lãnh nhận Phép Rửa.
Theo Catholic Customs & Traditions của Greg Dues, do Twenty-Third
Publications xuất bản. |