Tông thư Desiderio Desideravi


Conggiao.info

Tông thư Desiderio Desideravi

về đào tạo phụng vụ cho Dân Thiên Chúa

 

TÔNG THƯ

DESIDERIO DESIDERAVI

CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ

 

GỬI CÁC GIÁM MỤC, LINH MỤC VÀ PHÓ TẾ,

NHỮNG NGƯỜI SỐNG ĐỜI THÁNH HIẾN VÀ GIÁO DÂN VỀ ĐÀO TẠO PHỤNG VỤ CHO DÂN THIÊN CHÚA

 

Thầy rất mong ăn lễ Vượt Qua này với các con trước khi Thầy chịu khổ h́nh (Lc 22,15)

 

1. Anh chị em rất thân mến, tôi muốn gửi thư này đến tất cả anh chị em, sau khi công bố Tự sắc Traditionis Custodes mà tôi chỉ viết cho các giám mục - nay tôi viết thư này để chia sẻ với anh chị em một số suy tư về Phụng vụ, một chiều kích căn bản trong đời sống Hội Thánh. Chủ đề này rất rộng lớn và đáng được xem xét cẩn thận về mọi lănh vực: tuy nhiên, trong thư này, tôi không có ư định tŕnh bày vấn đề cách cặn kẽ. Đúng hơn, tôi muốn đưa ra một vài hướng suy tư có thể giúp ích cho việc chiêm ngưỡng vẻ đẹp và chân lư trong cử hành Kitô giáo.

Phụng vụ: “ngày hôm nay” trong lịch sử cứu độ

 

2. “Thầy rất mong ăn lễ Vượt Qua này với các con trước khi Thầy chịu khổ h́nh” (Lc 22,15). Câu nói này của Chúa Giêsu đă mở ra tŕnh thuật về Bữa Tiệc Ly, và như một khe cửa hé mở cho phép chúng ta có thể cảm thụ được chiều sâu của t́nh yêu Ba Ngôi Chí Thánh dành cho chúng ta.

 

3. Phêrô và Gioan được sai đi chuẩn bị những ǵ cần thiết cho bữa tiệc Vượt Qua, nhưng khi nh́n kỹ hơn, có thể thấy rằng tất cả thụ tạo, tất cả lịch sử - mà chung cuộc cũng là lịch sử cứu độ - đều tham dự vào cuộc chuẩn bị quy mô cho bữa tiệc này. Phêrô và những người khác hiện diện nơi bàn tiệc, không hiểu biết ǵ nhưng lại là những người cần phải có mặt, v́ bất kỳ món quà nào, để trở thành một món quà, phải có người sẵn ḷng đón nhận nó. Ở đây, khoảng cách bất cân xứng giữa sự to lớn của món quà và sự nhỏ bé của người nhận là vô hạn và không thể không làm chúng ta ngỡ ngàng. Tuy nhiên, bởi ḷng Chúa thương xót, món quà được trao cho các Tông đồ để các ngài mang đến cho tất cả mọi người, nam cũng như nữ.

 

4. Không ai tự kiếm được một chỗ ngồi trong bữa tiệc này, nhưng ai cũng được mời, hay nói đúng hơn, tất cả đều bị lôi cuốn bởi nỗi khao khát mănh liệt của Chúa Giêsu muốn ăn Lễ Vượt Qua với họ: Người biết ḿnh là Con Chiên Vượt Qua, và là chính Lễ Vượt Qua. Chính tính cách mới mẻ tuyệt đối của bữa ăn, điều mới mẻ thực sự duy nhất trong lịch sử, đă làm cho bữa tiệc này trở nên độc đáo và mang tính tối hậu, một lần duy nhất: “Bữa tối cuối cùng”. Tuy nhiên, khát vọng vô hạn của Người muốn tái lập mối hiệp thông với chúng ta, đă và vẫn là dự định từ đầu của Người, sẽ không được thoả măn cho đến khi mọi người, thuộc mọi chi họ, ngôn ngữ, dân tộc và quốc gia (Kh 5,9) được ăn Thịt và uống Máu của Người: đó là lư do tại sao chính bữa tiệc này phải được hiện tại hóa trong việc cử hành Thánh Thể, cho đến khi Người trở lại.

 

5. Thế gian chưa biết điều đó, nhưng tất cả đều được mời dự tiệc cưới của Chiên Con (x. Kh 19,9). Để được vào dự lễ, chỉ cần mặc áo cưới là đức tin, có được nhờ đă nghe Lời Người (x. Rm 10,17): Hội Thánh may áo này vừa vặn với mỗi người, bằng tấm vải trắng được giặt trong Máu Chiên Con (x. Kh 7,14). Chúng ta không được cho phép ḿnh nghỉ ngơi dù chỉ một phút giây, bởi biết rằng không phải tất cả mọi người đă nhận được lời mời tham dự bữa ăn này, hoặc có những người đă lăng quên hoặc lạc bước trong những lối quanh co của cuộc đời. Đó là điều tôi đă từng nói tới: “Tôi ước mơ một chọn lựa truyền giáo có thể làm thay đổi mọi sự, để các thói quen, phong cách hành động, giờ giấc chương tŕnh, ngôn ngữ và cơ cấu của Hội Thánh được khai thông thích hợp cho việc loan báo Tin Mừng trong thế giới ngày nay, hơn là cho sự bảo tồn của Hội Thánh” (Evangelii gaudium, số 27): để tất cả mọi người có thể ngồi ăn bữa tiệc hy tế của Chiên Con và được sống nhờ Người.

 

6. Trước khi chúng ta đáp lại lời mời, th́ từ rất lâu trước đó, Chúa đă khao khát muốn gặp chúng ta. Có thể chúng ta không nhận thức đủ, nhưng lư do chính để chúng ta đi tham dự Thánh lễ, là v́ chúng ta bị thu hút bởi sự khao khát của Chúa dành cho chúng ta. Về phần chúng ta, câu trả lời của chúng ta - cũng là điều đ̣i hỏi chúng ta phải hy sinh nhiều nhất - đó là luôn để cho Người yêu thương chúng ta, để cho Người thu hút chúng ta. Việc rước Ḿnh Máu Chúa Kitô chắc chắn là điều Người đă muốn trong Bữa Tiệc Ly.

 

7. Tấm bánh được bẻ ra chính là thánh giá của Chúa Giêsu, là hy lễ vâng phục của Người v́ t́nh yêu đối với Chúa Cha. Nếu không có Bữa Tiệc Ly, nghĩa là nếu không có việc cử hành hướng về cái chết của Người, chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được rằng việc Người đón nhận án chết là một hành vi phụng tự hoàn hảo và đẹp ḷng Chúa Cha, hành vi phụng tự đích thực duy nhất. Chỉ vài giờ sau Bữa Tiệc Ly, các Tông đồ, nếu có đủ sức chịu đựng, đă có thể nh́n thấy nơi thập giá của Chúa Giêsu, ư nghĩa của lời Người nói: “ḿnh bị nộp”, “máu đổ ra”. Đây là điều chúng ta tưởng niệm mỗi khi cử hành Thánh Thể. Khi Đấng Phục Sinh trở lại từ cơi chết để bẻ bánh cho các môn đệ ở Emmaus, và đối với các môn đệ trở lại biển Galilêa để lưới cá chứ không muốn đi lưới người, th́ cử chỉ bẻ bánh này sẽ làm mắt họ mở ra. Cử chỉ ấy chữa lành đôi mắt mù ḷa do nỗi kinh hoàng của cây thập giá, và giúp họ “thấy được” Đấng Phục sinh, có thể tin vào sự Phục sinh.

 

8. Giả sử bằng cách nào đó chúng ta đến Giêrusalem sau Lễ Ngũ Tuần và không chỉ muốn có những thông tin về Đức Giêsu người Nazareth, mà c̣n khao khát gặp lại Người, chúng ta không có cách nào khác hơn là t́m các môn đệ để nghe lời Người nói và thấy cử chỉ Người làm, sống động hơn bao giờ hết. Chúng ta không c̣n khả năng nào khác để gặp gỡ Người ngoài khả năng của cộng đoàn cử hành. Đó là lư do tại sao Hội Thánh luôn ǵn giữ lệnh truyền của Chúa như kho tàng quư giá nhất của ḿnh, “Các con hăy làm việc này mà nhớ đến Thầy”.

 

9. Ngay từ đầu, Hội Thánh đă ư thức rằng đây không phải là sự thể hiện, dù là thiêng liêng, về Bữa Tối của Chúa. Việc làm này sẽ chẳng có ư nghĩa ǵ, và không ai lại nghĩ đến việc “tŕnh diễn” - đặc biệt là trước mắt Đức Maria, Mẹ của Chúa - giây phút cao quư nhất trong cuộc đời của Thầy. Ngay từ đầu, Hội Thánh được Chúa Thánh Thần soi sáng, đă hiểu rằng những ǵ có thể nh́n thấy nơi Chúa Giêsu, những ǵ có thể nh́n thấy bằng mắt và chạm đến bằng tay, các lời nói và cử chỉ của Người, tính cụ thể của Ngôi Lời Nhập Thể, tất cả những ǵ thuộc về Người đă được chuyển thể qua cách cử hành các bí tích.[1]

Phụng vụ: nơi gặp gỡ Đức Kitô

 

10. Đây là nơi chứa đựng tất cả vẻ đẹp đầy năng lực của phụng vụ. Nếu sự Phục sinh đối với chúng ta chỉ là một khái niệm, một ư tưởng, một suy nghĩ; nếu Đấng Phục sinh đối với chúng ta chỉ là một sự tưởng nhớ qua kư ức của những người khác, ngay cả khi họ là người có thẩm quyền, chẳng hạn như các Tông đồ; nếu chúng ta không thể thực sự gặp gỡ Chúa, th́ chẳng khác ǵ tuyên bố rằng việc Ngôi Lời làm người chẳng đem lại điều ǵ mới mẻ. Trái lại, Nhập thể, không chỉ là sự kiện mới mẻ duy nhất trong lịch sử, nhưng c̣n là cách thức được Thiên Chúa Ba Ngôi chọn để mở ra con đường hiệp thông. Đức tin Kitô giáo là cuộc gặp gỡ Đức Kitô hằng sống, nếu không, đó không phải là đức tin.

 

11. Phụng vụ bảo đảm cho chúng ta có được cuộc gặp gỡ đó. Một kư ức trống rỗng về Bữa Tiệc Ly sẽ chẳng ích ǵ cho chúng ta. Chúng ta cần hiện diện trong bữa ăn này, để có thể nghe Lời Chúa, để ăn Ḿnh và uống Máu Người. Chúng ta cần Người. Trong bí tích Thánh Thể và trong tất cả các bí tích, chúng ta chắc chắn có thể gặp gỡ Chúa Giêsu và cảm nhận được quyền năng của mầu nhiệm Vượt Qua. Quyền năng cứu độ của hy tế, của từng lời nói, từng cử chỉ, từng dáng vẻ, từng tâm t́nh của Chúa Giêsu, đến với chúng ta qua việc cử hành các bí tích. Tôi là Nicôđêmô, là người phụ nữ Samaria bên bờ giếng, người bị quỷ ám ở Capharnaum, người bại liệt trong nhà Phêrô, người phụ nữ tội lỗi được tha thứ, người đàn bà mắc bệnh băng huyết, con gái của Giairô và người mù thành Giêricô, Zakêô và Lazarô, là tên trộm lành và là Phêrô đă được tha thứ. Chúa Giêsu, Đấng chịu sát tế trên thập tự giá, Người không chết nữa, và với các vết thương của cuộc khổ nạn, Người vẫn sống[2] vẫn tiếp tục tha thứ cho chúng ta, chữa lành chúng ta, và cứu rỗi chúng ta bằng quyền năng của các bí tích. Đây là thể thức Người yêu thương chúng ta cách thiết thực, theo phương thức mầu nhiệm nhập thể. Đây là cách Người làm dịu cơn khát của chính Người đối với chúng ta như Người đă kêu lên trên thập giá (x. Ga 19,28).

 

12. Cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng ta với mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô là sự kiện ghi dấu ấn trên cuộc đời của tất cả những ai tin vào Người, đó chính là bí tích Thánh Tẩy. Đó không phải là việc gắn kết tâm trí chúng ta vào suy nghĩ của Người hay chấp nhận các quy luật sống do Người truyền dạy. Đúng hơn, đó là việc d́m ḿnh vào cuộc khổ nạn, cái chết, sự sống lại và lên trời của Người. Đây không phải là một cử chỉ ma thuật. Ma thuật đối lập với logic của các bí tích v́ cho rằng nó có quyền trên cả Thiên Chúa, và v́ lư do đó, ma thuật là của ma quỷ, tên Cám dỗ. Trong sự tiếp nối trọn vẹn với mầu nhiệm Nhập thể, chúng ta được ban cho khả năng chết và sống lại trong Đức Kitô nhờ sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần.

 

13. Cách thức điều đó xảy ra thật cảm động biết bao! Lời nguyện làm phép nước rửa tội[3] cho chúng ta thấy khi tạo dựng nước, Thiên Chúa đă nghĩ đến bí tích Thánh Tẩy. Điều này có nghĩa là khi Thiên Chúa sáng tạo ra nước, Người đă nghĩ đến bí tích Rửa Tội của mỗi người chúng ta, và Người luôn giữ ư nghĩ này qua các hành động trong lịch sử cứu độ, mỗi khi Người dùng nước để làm một điều ǵ đó. Như thể, sau khi tạo ra nước, Thiên Chúa muốn hoàn thiện nước để làm cho nước trở thành chất thể trong bí tích Thánh Tẩy. Đây là cách Người ban cho nước được đầy năng lực của Thần Khí Người bay lượn trên mặt nước (x. St 1,2) để nước có được năng lực thánh hóa; Người dùng nước để tái tạo nhân loại trong trận Đại hồng thủy (x. St 6,1–9,29); Người bắt nước phải rẽ ra để mở con đường giải thoát qua Biển Đỏ (x. Xh 14); Người đă thánh hiến nước sông Giođan, để xác thể của Ngôi Lời được d́m trong Thánh Thần (x. Mt 3,13-17; Mc 1,9-11; Lc 3,21-22). Cuối cùng, Người đă để nước ḥa trong máu Con của Người, làm nên món quà là Thần Khí không thể tách rời với món quà là sự sống và sự chết của Con Chiên đă chịu sát tế v́ chúng ta, và từ cạnh sườn bị đâm thâu của Con Chiên, Người đổ máu và nước trên chúng ta (Ga 19,34). Chúng ta đă được d́m vào nước này để nhờ đó chúng ta được tháp nhập vào Thân Thể Đức Kitô và với Người, chúng ta được sống lại để được sống muôn đời (x. Rm 6,1-11).

 

Hội Thánh: Bí tích của Nhiệm Thể Chúa Kitô

 

14. Như Công đồng Vatican II đă nhắc nhở chúng ta (x. Sacrosanctum Concilium 5) khi trích dẫn Kinh Thánh, cùng với các Giáo phụ và Phụng vụ, là những trụ cột của Truyền thống đích thực: chính từ cạnh sườn Chúa Kitô. đang ngủ giấc ngủ của cái chết trên cây thánh giá, mà bí tích kỳ diệu của toàn thể Hội Thánh đă được khởi sinh[4]. Ađam cũ và Ađam mới có những điểm giống nhau thật đáng kinh ngạc: từ cạnh sườn của Ađam đầu tiên, đang trong giấc ngủ sâu, Thiên Chúa đă làm nên Êva; từ cạnh sườn Ađam mới, đang trong giấc ngủ của cái chết trên thập giá, Evà mới là Hội Thánh đă được khai sinh. Chúng ta ngỡ ngàng khi h́nh dung Ađam mới lúc nh́n thấy Hội Thánh cũng nói những lời này: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2,23). Bởi đă tin Lời Chúa và bước xuống ḍng nước Thánh Tẩy, chúng ta trở nên xương bởi xương và thịt bởi thịt của Người.

 

15. Không có sự kết hợp này, sẽ không có khả năng sống trọn vẹn việc phụng thờ Thiên Chúa. Thật vậy, chỉ có một hành động thờ phượng hoàn hảo và đẹp ḷng Chúa Cha, đó là sự vâng phục của Chúa Con đến độ chết trên thập giá. Cách duy nhất để thông phần vào hiến lễ của Người là trở thành “những người con trong Chúa Con”. Đây là món quà mà chúng ta đă lănh nhận. Chủ thể duy nhất hoạt động trong Phụng vụ luôn luôn là Chúa Kitô-Hội Thánh, Nhiệm thể của Người.

 

Ư nghĩa thần học của Phụng vụ

 

16. Chúng ta mang ơn Công đồng - và phong trào phụng vụ trước đó - trong việc tái khám phá ư nghĩa thần học và tầm quan trọng của Phụng vụ trong đời sống Hội Thánh. Các nguyên tắc chung được đặt ra trong Sacrosanctum Concilium đă là nền tảng cho việc cải cách phụng vụ, các nguyên tắc ấy cũng vẫn là nền tảng cho việc thăng tiến các cử hành Phụng vụ là “nguồn chính yếu và không thể thiếu để người tín hữu có thể kín múc tinh thần Kitô giáo đích thực” (Sacrosanctum Concilium 14), cách trọn vẹn, có ư thức, tích cực và hiệu quả (x. Sacrosanctum Concilium 11.14). Với lá thư này, tôi chỉ muốn mời gọi toàn thể Hội Thánh khám phá lại, bảo toàn và sống những ư nghĩa xác thực cũng như sức mạnh của các cử hành phụng vụ Kitô giáo. Tôi muốn vẻ đẹp và những hiệu năng cần thiết của việc cử hành Kitô giáo trong đời sống của Hội Thánh không bị biến dạng bởi một sự hiểu biết hời hợt và giản lược về giá trị, hoặc thậm chí tệ hơn, bởi việc biến Phụng vụ thành công cụ phục vụ một quan điểm ư thức hệ, dù quan điểm ấy có như thế nào đi nữa. Lời nguyện tư tế của Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly “để tất cả nên một” (Ga 17,21), đang phán xét những chia rẽ của chúng ta chung quanh tấm Bánh được bẻ ra, bí tích của ḷng đạo đức, bí tích của sự hợp nhất, mối liên kết của t́nh bác ái[5].

 

Phụng vụ: phương thuốc chống lại nọc độc của tinh thần thế tục

 

17. Tôi đă nhiều lần cảnh báo về một cám dỗ nguy hiểm cho đời sống của Hội Thánh, “tinh thần thế tục”: Tôi đă nói nhiều về vấn đề này trong Tông huấn Evangelii Gaudium 93-97), xác định thuyết Ngộ đạo và thuyết Tân-Pêlagiô là hai cách thức liên kết với nhau để tiếp tay cho tinh thần thế tục này.

 

Thuyết Ngộ đạo giản lược đức tin Kitô giáo thành một thái độ chủ quan, “cuối cùng giam hăm con người trong những suy tư và cảm xúc cá nhân” (Evangelii gaudium 94).

 

Thuyết Tân-Pêlagiô hủy bỏ giá trị của ân sủng và “thay vào đó quan điểm ưu tuyển tự măn và chuyên chế, chỉ muốn phân tích và xếp loại người khác thay v́ loan báo Tin Mừng; và dành hết năng lượng cho việc tra xét và kiểm chứng thay v́ mở rộng tâm hồn đón nhận ân sủng” (Evangelii gaudium 94).

 

Những dạng thức Kitô giáo sai lệch này có thể gây ra những hệ quả tai hại cho đời sống Hội Thánh.

 

18. Theo những điều tôi vừa nhắc lại, rơ ràng Phụng vụ tự bản chất là liều thuốc giải độc hiệu quả nhất đối với những chất độc này. Tôi đang nói về ư nghĩa thần học của Phụng vụ và, như Đức Piô XII đă khẳng định, “Phụng vụ chắc chắn không phải là một nghi lễ mang tính trang trí hoặc chỉ là một tổng hợp các luật lệ và quy định trong việc phụng tự”.[6]

 

19. Nếu thuyết Ngộ đạo làm chúng ta nhiễm chất độc của thái độ chủ quan, th́ cử hành phụng vụ giải thoát chúng ta khỏi ngục tù của thái độ tự quy chiếu được vun đắp bởi lư luận và cảm tính riêng của bản thân. Việc cử hành phụng vụ không thuộc về cá nhân nhưng thuộc về Đức Kitô-Hội Thánh, về toàn thể các tín hữu hợp nhất trong Đức Kitô. Phụng vụ không nói “tôi” mà nói “chúng tôi” và những hạn chế đối với tính cách “chúng tôi” này luôn luôn là do ma quỷ. Phụng vụ không để chúng ta đơn độc trong việc t́m kiếm sự hiểu biết mang tính cá nhân về mầu nhiệm Thiên Chúa, nhưng nắm lấy tay chúng ta, cùng với mọi người, trong cộng đoàn, để dẫn chúng ta vào mầu nhiệm mà Lời Chúa và các dấu chỉ bí tích bày tỏ cho chúng ta. Phụng vụ thực hiện việc này, phù hợp với cách hành động của Thiên Chúa, theo phương thức nhập thể, nghĩa là thông qua ngôn ngữ biểu tượng của thân xác, mở rộng đến các vật thể trong không gian và thời gian.

 

20. Nếu thuyết tân-Pêlagiô đầu độc chúng ta khi cho rằng ơn cứu rỗi là do chúng ta giành được bằng nỗ lực của chính ḿnh, th́ các cử hành phụng vụ thanh luyện chúng ta bằng cách loan báo về quà tặng vô điều kiện là ơn cứu rỗi nhận được trong đức tin. Tham dự vào hy tế Thánh Thể không phải là một thành tích cá nhân, như thể chúng ta có thể khoe khoang trước Thiên Chúa hoặc trước anh chị em ḿnh. Phần mở đầu mỗi Thánh lễ nhắc tôi nhớ tôi là ai, khi kêu gọi tôi thú nhận tội lỗi và xin Đức Trinh Nữ Maria, các thiên thần, các thánh và tất cả anh chị em của tôi khẩn cầu cho tôi trước ṭa Chúa. Chắc chắn chúng ta không xứng đáng vào nhà Người, chúng ta cần Người phán một lời để chúng ta được cứu rỗi (x. Mt 8,8). Chúng ta không tự hào về điều ǵ khác ngoài thập giá của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta (x. Gl 6,14). Phụng vụ không liên quan ǵ đến chủ nghĩa luân lư khổ hạnh. Đây là một tặng phẩm của mầu nhiệm Chúa Kitô Phục sinh, để khi ngoan ngoăn đón nhận, cuộc sống chúng ta sẽ được đổi mới. Chúng ta bước vào nhà Tiệc ly chỉ v́ được thu hút bởi nỗi khao khát của Chúa muốn ăn Lễ Vượt Qua với chúng ta: Desiderio desideravi hoc Pascha manducare vobiscum, antequam patiar (Lc 22,15).

 

Khám phá lại mỗi ngày vẻ đẹp đích thực của việc cử hành Kitô giáo

 

21. Nhưng chúng ta phải cẩn thận: để liều thuốc giải độc của Phụng vụ có hiệu lực, mỗi ngày chúng ta cần khám phá lại vẻ đẹp đích thực của các cử hành Kitô giáo. Một lần nữa tôi quy chiếu về ư nghĩa thần học, như được mô tả cách tuyệt vời trong số 7 của Sacrosanctum Concilium: Phụng vụ là chức năng tư tế của Đức Kitô, được mặc khải và trao ban trong Mầu nhiệm Vượt Qua của Người, được hiện tại hóa và tác động qua những dấu chỉ hữu h́nh (nước, dầu, bánh, rượu, cử chỉ, lời nói), để Thần Khí d́m sâu chúng ta vào mầu nhiệm Vượt Qua, và biến đổi toàn bộ cuộc sống của chúng ta, làm cho chúng ta ngày càng nên đồng h́nh đồng dạng với Chúa Kitô.

 

22. Việc liên tục tái khám phá vẻ đẹp của Phụng vụ không phải là việc phô diễn nghi lễ bằng cách cẩn thận tuân thủ các nghi thức bên ngoài hoặc tỉ mỉ giữ đúng luật chữ đỏ. Tất nhiên, nói như thế không có nghĩa là tôi tán thành thái độ ngược lại, thái độ nhầm lẫn giữa nét đơn giản với sự tầm thường bất cẩn, giữa điều thiết yếu với sự hời hợt thiếu hiểu biết, hoặc giữa tính cụ thể của nghi lễ với quan điểm duy chức năng quá mức trong thực hành.

 

23. Chúng ta hăy nói rơ luôn: phải quan tâm đến tất cả các khía cạnh của việc cử hành (không gian, thời gian, cử chỉ, lời nói, đồ vật, lễ phục, ca hát, âm nhạc, v.v.) và phải tôn trọng từng điểm trong luật chữ đỏ: một thái độ chú ư như thế sẽ đủ để không cướp mất quyền của cộng đoàn được cử hành mầu nhiệm Vượt Qua theo nghi thức do Hội Thánh thiết lập. Nhưng ngay cả khi nghi lễ được cử hành cách tốt đẹp và đúng quy định, th́ điều đó vẫn chưa đủ để chúng ta thông phần cách trọn vẹn.

 

Thái độ ngỡ ngàng thán phục trước mầu nhiệm Vượt Qua: một yếu tố thiết yếu của phụng vụ

 

24. Nếu không ngỡ ngàng thán phục trước mầu nhiệm Vượt Qua được hiện tại hóa cách cụ thể qua các dấu chỉ bí tích, chúng ta sẽ thực sự có nguy cơ không được d́m vào đại dương ân sủng ngập tràn nơi từng cử hành phụng vụ. Những nỗ lực dù đáng khen trong việc cải thiện phẩm chất của việc cử hành vẫn chưa đủ, vẫn chưa là lời kêu gọi hướng đến một thái độ nội tâm sâu sắc hơn. Ngay cả thái độ nội tâm này cũng có nguy cơ bị giản lược thành một thái độ chủ quan trống rỗng nếu không đón nhận mặc khải của mầu nhiệm Kitô giáo. Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa không phải là kết quả của một cuộc t́m kiếm nội tâm cá nhân, nhưng là một tặng phẩm: chúng ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa qua một hành động mới của việc Nhập thể đạt đến mức tận cùng trong Bữa Tiệc Ly là muốn được trở thành của ăn nuôi dưỡng chúng ta. Lẽ nào chúng ta lại đánh mất niềm hạnh phúc khi để ḿnh không c̣n bị lôi cuốn trước vẻ đẹp của tặng phẩm này?

 

25. Khi nói đến sự ngỡ ngàng thán phục trước mầu nhiệm Vượt Qua, tôi hoàn toàn không định nói về điều mà đối với tôi đôi khi được diễn tả bằng một thuật ngữ mơ hồ: “cảm thức về mầu nhiệm. Đôi khi đây được cho là một trong những cáo buộc chính chống lại việc cải cách phụng vụ. Có người bảo rằng cảm thức về mầu nhiệm đă bị loại bỏ khỏi các cử hành. Sự ngỡ ngàng thán phục mà tôi nói đến không phải là việc bị choáng váng trước một thực tại không hiểu nổi hay một nghi thức bí ẩn, nhưng ngược lại, là sự ngỡ ngàng thán phục trước một sự kiện, đó là chương tŕnh cứu độ của Thiên Chúa đă được mặc khải cho chúng ta trong mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Giêsu (x. Ep 1,3-14), và hiệu năng của sự kiện Vượt Qua này tiếp tục đến với chúng ta trong việc cử hành “các mầu nhiệm”, các bí tích. Một thực tế khác, đó là sự phong phú của mặc khải trọn vẹn luôn vượt trên khả năng hữu hạn của con người và sẽ nên hoàn tất vào lúc cùng tận thời gian, khi Chúa Kitô quang lâm. Với sự ngỡ ngàng thán phục đúng nghĩa, chúng ta sẽ tránh được nguy cơ không nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện theo một cách thức khác, ngay cả khi cách thức đó cũng giống như việc Nhập thể. Nếu cuộc cải cách đă loại bỏ được sự mơ hồ của “cảm thức về mầu nhiệm” này, th́ đây là một công trạng hơn là một lư do để buộc tội. Vẻ đẹp, giống như chân lư, luôn khơi dậy sự ngưỡng mộ và khi liên quan đến mầu nhiệm Thiên Chúa, sẽ trở thành thái độ tôn thờ.

 

26. Ngỡ ngàng thán phục là thái độ thiết yếu của hành động phụng vụ, v́ đó là thái độ của những người biết họ đang tham dự vào tính cách đặc thù của các hành vi mang tính biểu tượng; đây là thái độ ngỡ ngàng thán phục của những người đang trải nghiệm năng lực của biểu tượng, năng lực ấy không dẫn đến những khái niệm trừu tượng, nhưng đúng hơn, chứa đựng và diễn đạt điều được biểu thị qua tính chất cụ thể của biểu tượng.

 

Sự cần thiết phải đào tạo phụng vụ cách nghiêm túc và gắn liền với cuộc sống

 

27. Do đó, vấn đề cơ bản là làm thế nào để phục hồi khả năng sống trọn vẹn các cử hành phụng vụ? Đây là mục tiêu cải cách của Công đồng. Thách thức là vô cùng khắc nghiệt, v́ con người hiện đại - đang sống trong những nền văn hóa không ngang tầm với nhau - đă mất đi khả năng tham gia vào những hành vi mang tính biểu tượng, một đặc điểm thiết yếu của hành vi phụng vụ.

 

28. Trong thời hậu hiện đại, con người cảm thấy bản thân ngày càng lạc lơng hơn, không có điểm quy chiếu nào, mất đi nhiều giá trị do thái độ thờ ơ vô tâm, hoàn toàn mồ côi cô độc, sống trong một mảnh đời vô nghĩa, ngày càng bị đè nặng bởi di sản do thời đại trước để lại, bao gồm chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa chủ quan (một lần nữa gợi lên những vấn đề liên quan đến thuyết Pêlagiô và thuyết Ngộ đạo). Di sản đó cũng bao gồm chủ nghĩa tâm linh trừu tượng mâu thuẫn với chính bản chất con người, v́ con người là một tinh thần nhập thể và do đó, có khả năng hành động và hiểu biết mang tính biểu tượng.

 

29. Hội Thánh, được quy tụ trong Công Đồng, đă muốn tiếp xúc với chính thực tại này của thế giới hiện đại, đang khi vẫn tái khẳng định ư thức ḿnh là bí tích của Chúa Kitô, là Ánh sáng các dân tộc (Lumen gentium), đặt ḿnh vào việc sốt sắng lắng nghe Lời Chúa (Dei Verbum), và nhận lấy niềm vui và hy vọng của con người thời đại như của chính ḿnh (Gaudium et spes). Công đồng là biểu hiện cao nhất của tính hiệp hành trong Hội Thánh, và cùng với tất cả anh chị em, tôi được kêu gọi trở thành người ǵn giữ kho tàng phong phú của Công đồng. Các Hiến chế quan trọng của Công đồng không thể tách rời nhau, và không phải ngẫu nhiên mà nỗ lực suy tư đầy giá trị này của Công đồng Đại kết đă bắt đầu với việc suy tư về Phụng vụ (Sacrosanctum Concilium).

 

30. Bế mạc kỳ họp thứ hai của Công đồng (ngày 4 tháng 12 năm 1963), Thánh Phaolô VI đă phát biểu: “Những cuộc thảo luận khó khăn và phức tạp đă có kết quả dồi dào phong phú, đă đúc kết được một chủ đề, đó là Phụng vụ thánh. Chủ đề đă được đề cập ngay từ đầu, theo một nghĩa nào đó, đây là vấn đề ưu tiên hơn tất cả các vấn đề khác, xét về giá trị nội tại và tầm quan trọng trong đời sống Hội Thánh và hôm nay tôi long trọng ban hành văn kiện về Phụng vụ. Tâm trí tôi phấn khởi trong niềm vui thực sự, v́ theo cách thức mọi việc đă diễn ra, tôi ghi nhận bậc thang chính xác về giá trị và bổn phận đă được tôn trọng. Thiên Chúa phải ở vị trí thứ nhất; cầu nguyện là bổn phận đầu tiên của chúng ta. Phụng vụ là nguồn mạch đầu tiên của sự hiệp thông thần linh, trong đó Thiên Chúa chia sẻ sự sống của chính Người cho chúng ta. Phụng vụ cũng là trường học đầu tiên của đời sống thiêng liêng. Phụng vụ là món quà đầu tiên mà chúng ta phải trao cho các Kitô hữu hợp nhất với chúng ta trong đức tin và ḷng nhiệt thành cầu nguyện. Đây cũng là lời mời đầu tiên gửi đến toàn thể nhân loại, để giờ đây mọi người có thể cất cao giọng nói thầm lặng của ḿnh trong một lời cầu nguyện thánh thiện và chân thành, nhờ đó họ t́m thấy được sức mạnh khôn tả và có năng lực tái sinh, khi cùng với chúng ta loan truyền lời ngợi khen Thiên Chúa cũng như niềm hy vọng của trái tim con người qua Chúa Giêsu Kitô và trong Chúa Thánh Thần”.[7]

 

31. Trong thư này, tôi không thể nói với anh chị em về sự phong phú của các cách diễn đạt khác nhau trong diễn từ này, tôi khuyên anh chị em hăy suy niệm riêng về văn kiện ấy. Nếu Phụng vụ là “tột đỉnh quy hướng mọi hoạt động của Hội Thánh, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực của Hội Thánh” (Sacrosanctum Concilium, 10), th́ chúng ta có thể hiểu được những nguy cơ trong Phụng vụ. Có những căng thẳng, không may xuất hiện chung quanh việc cử hành phụng vụ, nhưng thật tầm thường nếu cho đó chỉ là sự khác biệt đơn giản do cảm nhận khác nhau về một dạng thức nghi lễ cá biệt nào đó. Vấn đề chủ yếu là Giáo hội học. Tôi không hiểu sao một người vừa công nhận tính hợp lệ của Công đồng - mặc dù tôi rất ngạc nhiên khi một người công giáo lại có thể không công nhận điều đó - lại vừa không chấp nhận cuộc cải cách phụng vụ khởi sinh từ Sacrosanctum Concilium, một văn kiện diễn tả thực tại của phụng vụ trong mối liên hệ mật thiết với tầm nh́n về Hội Thánh được mô tả cách tuyệt vời trong Lumen Gentium. V́ lư do này, như tôi đă giải thích trong thư gửi cho tất cả các giám mục, tôi thấy ḿnh có bổn phận phải khẳng định rằng “các sách phụng vụ do Thánh Phaolô VI và Thánh Gioan Phaolô II ban hành, phù hợp với các sắc lệnh của Công đồng Vatican II, là cách diễn đạt duy nhất của lex orandi (luật cầu nguyện) trong Nghi lễ Rôma” (Tự sắc Traditionis custodes, 1). Việc không chấp nhận cũng như hiểu biết hời hợt về việc cải cách phụng vụ, làm chúng ta sao lăng nhiệm vụ t́m lời giải đáp cho câu hỏi tôi muốn lặp lại ở đây: làm thế nào để chúng ta tăng thêm khả năng sống trọn vẹn các hành động phụng vụ? Làm thế nào để chúng ta có thể tiếp tục ngỡ ngàng thán phục trước những ǵ đang diễn ra trước mắt chúng ta trong các cử hành phụng vụ? Chúng ta cần thực hiện việc đào tạo phụng vụ cách nghiêm túc và gắn liền với cuộc sống.

32. Chúng ta hăy trở lại Pḥng Tiệc Ly ở Giêrusalem. Vào sáng ngày Lễ Ngũ Tuần, Hội Thánh được khai sinh, tế bào đầu tiên của một nhân loại mới. Chỉ có cộng đoàn gồm những người, nam cũng như nữ, đă được ḥa giải nhờ ơn tha thứ, được sống v́ Đức Kitô đang sống, chân thật v́ có Thần Khí sự thật ở cùng, mới có thể mở rộng không gian chật hẹp của chủ nghĩa cá nhân trong đời sống thiêng liêng.

 

33. Chỉ có cộng đoàn của ngày lễ Ngũ Tuần mới có thể cử hành lễ bẻ Bánh với niềm xác tín rằng Chúa đang sống, Đấng đă sống lại từ cơi chết, đang hiện diện bằng lời của Người, bằng cử chỉ của Người, bằng việc dâng Ḿnh và Máu Người. Kể từ đó, cử hành phụng vụ trở thành một nơi đặc biệt - mặc dù không phải là nơi duy nhất - của cuộc gặp gỡ với Chúa. Chúng ta biết rằng chỉ qua ân sủng của cuộc gặp gỡ này, con người mới trở thành con người trọn vẹn. Chỉ có Hội Thánh của lễ Ngũ tuần mới có thể quan niệm con người là một nhân vị, mở rộng ḷng đón nhận mối tương quan trọn vẹn với Thiên Chúa, với muôn loài thụ tạo và với anh chị em của ḿnh.

 

34. Chính trong cộng đoàn đó, vấn đề mang tính quyết định về việc đào tạo phụng vụ được đặt ra. Romano Guardini nói: “Đây là nhiệm vụ thực tế đầu tiên phải hoàn thành: cùng với sự biến đổi nội tâm của thời đại chúng ta, chúng ta phải học lại cách sống mối tương quan tôn giáo trong tư cách là những con người trọn vẹn”.[8] Đây là điều có thể thực hiện được nhờ Phụng vụ. Và để làm được như thế, chúng ta phải được đào tạo. Guardini không ngần ngại khẳng định rằng nếu không có đào tạo phụng vụ, th́ “việc cải cách các nghi thức và bản văn sẽ không giúp ích được ǵ nhiều”.[9] Ở đây tôi không có ư định giải quyết thấu đáo chủ đề rất phong phú của việc đào tạo phụng vụ. Tôi chỉ muốn đưa ra một vài khởi điểm để suy tư. Tôi nghĩ chúng ta có thể phân biệt hai khía cạnh: đào tạo cho phụng vụ và đào tạo qua phụng vụ. Công việc thứ hai là thiết yếu và công việc thứ nhất phụ thuộc vào đó.

 

35. Cần phải t́m ra những đường dẫn cho việc đào tạo trong nghiên cứu Phụng vụ. Ngay từ đầu, phong trào phụng vụ đă thực hiện nhiều việc trong lĩnh vực này, với sự đóng góp quư báu của các học giả và các học viện. Tuy nhiên, điều quan trọng bây giờ là phải phổ biến kiến thức này ra ngoài môi trường học viện, có thể tiếp cận dễ dàng, để mỗi tín hữu có thể gia tăng kiến thức về ư nghĩa thần học của Phụng vụ. Đây là vấn đề mang tính quyết định, là nền tảng cho sự hiểu biết và thực hành phụng vụ. Nó cũng h́nh thành nên chính việc cử hành, giúp mọi người có có khả năng hiểu được các bản văn kinh nguyện, tính cách năng động và ư nghĩa nhân học của các nghi lễ.

 

36. Tôi nghĩ đến nhịp điệu đều đặn của các cộng đoàn được quy tụ để cử hành Thánh Thể vào ngày của Chúa, Chúa Nhật này rồi Chúa Nhật sau, lễ Phục sinh này đến lễ Phục sinh năm tới, vào những thời điểm cụ thể trong cuộc đời của từng cá nhân và cộng đoàn, ở tất cả các độ tuổi khác nhau của cuộc sống. Các thừa tác viên đă lănh chức thánh sẽ thực thi tác vụ mục vụ có tầm quan trọng hàng đầu, khi các ngài cầm tay các tín hữu đă được rửa tội để đưa họ vào những trải nghiệm thường xuyên của mầu nhiệm Vượt Qua. Chúng ta hăy luôn nhớ rằng chính Hội Thánh, Nhiệm Thể Chúa Kitô, là chủ thể cử hành chứ không chỉ là linh mục. Kiến thức có được từ việc học hỏi chỉ là bước đầu tiên để có thể đi vào mầu nhiệm đang được cử hành. Thật quá rơ, để có thể dẫn dắt anh chị em của ḿnh, các thừa tác viên chủ sự cộng đoàn phải biết đường đi, bằng cách vừa nắm rơ lộ tŕnh trên bản đồ nghiên cứu thần học, vừa phải siêng năng cử hành phụng vụ để có những trải nghiệm về một đức tin sống động, được nuôi dưỡng bằng lời cầu nguyện, và chắc chắn không chỉ đơn thuần là thi hành một bổn phận bó buộc. Trong lễ truyền chức, mỗi linh mục nghe giám mục nói: “Hăy ư thức việc con làm, noi theo điều con cử hành, và rập mẫu đời sống con theo mầu nhiệm Thánh giá Chúa”.[10]

 

37. Chương tŕnh học về Phụng vụ trong các chủng viện cũng phải lưu ư đến năng lực phi thường của chính việc cử hành là cung cấp một tầm nh́n mang tính hệ thống và thống nhất về tất cả các kiến thức thần học. Mỗi môn thần học, trong từng lĩnh vực riêng biệt, phải thể hiện mối liên hệ mật thiết với Phụng vụ, để trong ánh sáng của Phụng vụ, chương tŕnh thần học biểu lộ rơ nét và thực hiện tính cách thống nhất của việc đào tạo linh mục (x. Sacrosanctum Concilium 16). Một hệ thống liên kết phụng vụ và kiến thức trong chương tŕnh đào tạo thần học tại các chủng viện chắc chắn sẽ có những tác động tích cực trong hoạt động mục vụ. Không chỉ là kết quả của những chương tŕnh được soạn thảo kỹ lưỡng, việc thực hành mục vụ mang tính tổng hợp, có hệ thống và toàn diện, là kết quả của việc đặt Thánh Lễ Chúa Nhật, nền tảng của sự hiệp thông, làm trung tâm của đời sống cộng đoàn. Kiến thức thần học về Phụng vụ không cho phép hiểu những điều vừa nói có nghĩa là giản lược tất cả vào khía cạnh phụng tự. Một cử hành phụng vụ mà không rao giảng Tin mừng là một cử hành không xác thực, và cũng là không xác thực, nếu lời rao giảng không dẫn đến gặp gỡ với Chúa Phục sinh trong cử hành phụng vụ. Và cả hai việc này, nếu không có chứng từ của ḷng bác ái, sẽ giống như tiếng cồng chiêng ồn ào hay tiếng chũm chọe vang rền (x. 1Cr 13,1).

 

38. Đối với các thừa tác viên cũng như đối với tất cả những người đă được rửa tội, việc đào tạo phụng vụ theo nghĩa chính yếu này, không phải là điều có thể đạt được một lần cho tất cả. V́ ân huệ của mầu nhiệm được cử hành vượt quá khả năng hiểu biết của chúng ta, nên cùng với nỗ lực này, mọi người phải thực hiện chương tŕnh thường huấn, đào tạo trường kỳ, với thái độ khiêm nhường của những kẻ bé mọn, một thái độ sẽ mở ra thành ngưỡng mộ thán phục.

 

39. Một nhận xét cuối về các chủng viện: ngoài chương tŕnh học, chủng viện cũng phải cung cấp những trải nghiệm về việc cử hành phụng vụ, không chỉ mẫu mực về phương diện nghi thức, mà c̣n phải xác thực và sống động, để có thể sống hiệp thông thực sự với Thiên Chúa, cũng là sự hiệp thông mà kiến thức thần học phải hướng tới. Chỉ có tác động của Thánh Thần mới có thể giúp chúng ta hoàn thiện kiến thức về mầu nhiệm Thiên Chúa, v́ mầu nhiệm này không phải là vấn đề thuộc dạng hiểu được bằng trí tuệ, mà là về mối tương quan ảnh hưởng đến tất cả cuộc sống. Đây là một trải nghiệm nền tảng để khi được truyền chức, các chủng sinh có thể đồng hành với các cộng đoàn trong cùng một hành tŕnh nhận biết mầu nhiệm Thiên Chúa, mầu nhiệm t́nh yêu.

 

40. Nhận định này mời gọi chúng ta suy tư về ư nghĩa thứ hai của thuật ngữ “đào tạo phụng vụ”. Tôi muốn đề cập đến việc chúng ta, mỗi người trong ơn gọi của ḿnh, được đào tạo nhờ việc tham gia cử hành phụng vụ. Ngay cả kiến thức có được nhờ nghiên cứu học hỏi như tôi vừa mới nói, nếu không muốn trở thành duy lư, phải phục vụ cho chức năng đào tạo của Phụng vụ được thực thi nơi mỗi tín hữu trong Chúa Kitô.

 

41. Qua tất cả những ǵ chúng ta đă nói về bản chất của Phụng vụ, có thể thấy rơ là sự hiểu biết về mầu nhiệm Chúa Kitô, một vấn đề mang tính quyết định cho cuộc đời chúng ta, không là việc tâm trí thấu triệt một ư tưởng nào đó, nhưng là sự gắn bó hiện sinh thực sự với con người của Người. Theo nghĩa này, Phụng vụ không thuộc lĩnh vực “tri thức”, và chức năng chủ yếu không phải là sư phạm, mặc dù có giá trị sư phạm rất lớn (x. Sacrosanctum Concilium 33). Đúng hơn, Phụng vụ là lời ngợi khen, lời tạ ơn về mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Con, mầu nhiệm đang tác động đến đời sống chúng ta. Việc cử hành liên quan đến thực trạng của con người chúng ta trong việc ngoan ngoăn sống theo tác động của Thánh Thần, Đấng luôn hoạt động cho đến khi Chúa Kitô được h́nh thành trong chúng ta (x. Gl 4,19). Mức độ trọn vẹn của việc đào tạo là chúng ta nên đồng h́nh đồng dạng với Chúa Kitô. Tôi xin nhắc lại, đó không phải là một tiến tŕnh trừu tượng trong tâm trí, mà là việc trở nên chính Chúa Kitô. Chính v́ mục đích này mà Thánh Linh được trao ban, và tác động của Người bao giờ cũng chỉ nhằm xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô. Nhiệm thể được xây dựng với bánh Thánh Thể, và với việc mỗi người tín hữu được kêu gọi ngày càng trở nên điều đă nhận được như một hồng ân trong bí tích Rửa Tội, đó là trở thành chi thể của Nhiệm thể Chúa Kitô. Thánh Lêô Cả viết: “Việc thông dự vào Ḿnh và Máu Chúa Kitô không hướng đến điều nào khác hơn là làm cho chúng ta trở thành Đấng chúng ta ăn”.[11]

 

42. Việc thông phần hiện sinh này - tiếp nối và liên hệ mật thiết với phương thức Nhập thể - mang chiều kích bí tích. Phụng vụ được cử hành với những chất thể hữu h́nh ngược với những điều trừu tượng thiêng liêng: bánh, rượu, dầu, nước, hương, lửa, tro, đá, vải, màu sắc, cơ thể, lời nói, âm thanh, thinh lặng, cử chỉ, không gian, chuyển động, hành động, nghi thức, thời gian, ánh sáng. Toàn thể thụ tạo là biểu hiện của t́nh yêu Thiên Chúa, và từ khi t́nh yêu này thể hiện trọn vẹn nơi thập giá Chúa Giêsu, tất cả muôn loài thụ tạo đều hướng về t́nh yêu ấy. Có thể nói toàn thể thụ tạo đều phục vụ cho cuộc gặp gỡ với Ngôi Lời: nhập thể, chịu đóng đinh, chết, sống lại, lên trời về với Chúa Cha, như lời nguyện đọc trên nước nơi Giếng Rửa Tội, lời nguyện trên dầu thánh và lời nguyện dâng tiến bánh rượu: tất cả hoa màu ruộng đất và lao công của con người.

 

43. Phụng vụ tôn vinh Thiên Chúa không phải v́ chúng ta có thể thêm một điều ǵ đó vào vẻ đẹp của ánh sáng không thể đạt đến trong đó Thiên Chúa luôn ngự trị (x. 1Tm 6,16). Chúng ta cũng không thể thêm ǵ vào sự hoàn hảo của bài ca thiên thần vang lên đời đời trên các tầng trời. Phụng vụ tôn vinh Thiên Chúa v́ cho phép chúng ta đang ở đây, trên trái đất, được nh́n thấy Thiên Chúa trong việc cử hành các mầu nhiệm, và khi nh́n thấy Người, chúng ta lại được sống nhờ lễ Vượt Qua của Người. Chúng ta, những người đă chết trong tội lỗi và được sống lại với Chúa Kitô, chúng ta là vinh quang của Thiên Chúa. Chính nhờ ân sủng mà chúng ta được cứu rỗi (x. Ep 2, 5). Thánh Irênê, vị tiến sĩ của sự hợp nhất, nhắc nhở chúng ta: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người đang sống, và sự sống của con người hệ tại ở việc nh́n thấy Thiên Chúa: nếu sự mặc khải của Thiên Chúa qua công tŕnh tạo dựng đă đem đến sự sống cho tất cả các sinh vật trên trái đất, th́ c̣n hơn thế, sự tỏ ḿnh của Chúa Cha qua Ngôi Lời là nguồn mạch sự sống cho những ai nh́n thấy Thiên Chúa”.[12]

 

44. Guardini viết: “Đây là nhiệm vụ đầu tiên của việc đào tạo phụng vụ: con người phải một lần nữa t́m lại được khả năng hiểu được biểu tượng”.[13] Đó là trách nhiệm của tất cả mọi người, của các thừa tác viên đă lănh chức thánh cũng như của các tín hữu. Đây không phải là một nhiệm vụ dễ dàng, v́ con người hiện đại đă trở nên thất học, không c̣n biết đọc các biểu tượng; dường như cũng chẳng nghĩ đến việc có biểu tượng hay không nữa. Điều này cũng xảy ra với tính cách biểu tượng của thân xác. Thân xác chúng ta là một biểu tượng, v́ là sự kết hợp mật thiết giữa hồn và xác; linh hồn thiêng liêng được nh́n thấy qua thân xác vật chất; và trong đó chứa đựng duy nhất tính, một đặc tính của con người không thể có ở bất kỳ loại sinh vật nào khác. Khả năng hướng đến siêu việt, hướng đến Thiên Chúa, là yếu tố cấu thành chúng ta. Nếu không nhận ra điều đó, chắc chắn chúng ta không chỉ không biết về Thiên Chúa mà c̣n không biết về chính ḿnh. Để nhận ra điều đó, chỉ cần nh́n vào những cách đối xử ngược đời với thân xác: lúc th́ chăm sóc quá đáng v́ tin vào huyền thoại về tuổi trẻ vĩnh cửu, lúc khác lại hạ thân xác xuống thành một thứ vật chất không c̣n phẩm giá ǵ cả. Thực tế là người ta không thể thấy thân xác có giá trị nếu như chỉ nh́n vào chính thân xác. Biểu tượng nào cũng vừa mạnh mẽ vừa mong manh. Nếu không được tôn trọng, nếu không được hiểu chính xác, nó sẽ đổ vỡ, mất đi sức mạnh và trở nên vô nghĩa.

Chúng ta không c̣n có cái nh́n của Thánh Phanxicô, ngài nh́n vào mặt trời - mà ngài gọi là “ông anh” v́ ngài cảm thấy như vậy - ngài thấy nó quá đẹp và rạng ngời rực rỡ, và ngài hát lên với cả tâm t́nh ngưỡng mộ: lạy Đấng Tối cao, mặt trời giống Ngài quá.[14] Việc mất khả năng nắm bắt giá trị biểu tượng của thân xác và của các vật thụ tạo làm cho ngôn ngữ biểu tượng của Phụng vụ hầu như không thể tiếp cận được với năo trạng hiện đại. Tuy nhiên, vấn đề không phải là từ bỏ ngôn ngữ này. Chúng ta không được từ bỏ ngôn ngữ biểu tượng v́ đây là cách Chúa Ba Ngôi đă chọn để đến với chúng ta qua máu thịt của Ngôi Lời. Đúng hơn, vấn đề là khôi phục khả năng sử dụng và hiểu các biểu tượng phụng vụ. Chúng ta vẫn hy vọng, v́ như tôi vừa nói, đây là chiều kích cấu thành trong chúng ta, và bất chấp những sai lầm của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy linh - cả hai đều phủ nhận sự thống nhất của linh hồn và thể xác - chiều kích đó luôn sẵn sàng xuất hiện trở lại, sự thật nào cũng thế.

 

45. V́ vậy, câu hỏi tôi muốn đặt ra là làm thế nào để chúng ta có lại khả năng biểu tượng? Làm thế nào để chúng ta lại biết cách đọc và sống các biểu tượng? Chúng ta biết rơ rằng, bởi ân sủng của Thiên Chúa, việc cử hành các bí tích có hiệu năng ex opere operato (hiệu năng do sự), nhưng điều này không bảo đảm rằng mọi người sẽ tham dự trọn vẹn nếu họ không hiểu được ngôn ngữ của cử hành một cách thích đáng. Khả năng “đọc” biểu tượng không phải là kiến thức của trí tuệ, cũng không phải là hiểu biết các khái niệm, mà là một kinh nghiệm sống.

 

46. Trước tiên chúng ta phải lấy lại niềm tin vào các thụ tạo. Ư tôi muốn nói là các thụ tạo đều do Thiên Chúa tạo dựng, và các bí tích “được làm” bằng các vật ấy. Chúng quy hướng về Người, và chính Người đă sử dụng chúng, cách cụ thể trong công tŕnh Nhập thể, để chúng trở thành khí cụ cứu rỗi, phương tiện của Thánh Thần, máng chuyển ân sủng. Quan điểm này rơ ràng khác xa quan điểm duy vật hoặc duy linh. Nếu các thụ tạo là một phần cơ bản, thiết yếu của các bí tích mang lại ơn cứu rỗi như thế, th́ chúng ta phải sẵn sàng gặp gỡ chúng với một cái nh́n mới, sâu sắc, với sự tôn trọng và biết ơn. Ngay từ khởi nguyên, các thụ tạo đă chứa đựng mầm mống của ơn thánh hóa nơi các bí tích.

 

47. Vẫn trong ư tưởng liên quan đến cách thức Phụng vụ đào tạo chúng ta, một vấn đề mang tính quyết định khác là cần có sự dạy dỗ hướng đến một thái độ nội tâm cho phép chúng ta sử dụng và hiểu các biểu tượng phụng vụ. Tôi xin tŕnh bày cách đơn giản. Tôi đang nghĩ đến cha mẹ, hoặc là ông bà, kể cả các linh mục và giáo lư viên của chúng ta. Nhiều người trong chúng ta đă học được nơi họ về năng lực của các cử chỉ phụng vụ, như dấu thánh giá, quỳ gối, các điều chúng ta phải tin. Có lẽ bây giờ chúng ta không c̣n nhớ đă học như thế nào, nhưng chúng ta có thể dễ dàng h́nh dung ra cử chỉ của một bàn tay lớn nắm lấy bàn tay nhỏ bé của một đứa trẻ và chậm răi vẽ trên người đứa bé dấu hiệu của ơn cứu rỗi lần đầu tiên. Những lời đi kèm với động tác cũng được đọc lên cách chậm răi, như muốn nắm giữ từng khoảnh khắc của cử chỉ, như muốn chiếm hữu toàn thể thân xác: “Nhân danh Cha… và Con… và Thánh Thần. … Amen”.

Và sau đó buông tay đứa trẻ, nh́n nó một ḿnh lặp lại động tác ấy, sẵn sàng giúp đỡ nó nếu cần. Động tác này giờ đây lại được thực hiện, như chiếc áo cùng lớn lên với đứa bé, mặc cho nó một ư nghĩa mà chỉ có Chúa Thánh Thần mới biết. Từ lúc đó, cử chỉ này và năng lực biểu tượng của nó, đă là của chúng ta, đă thuộc về chúng ta, hay nói đúng hơn, chúng ta thuộc về nó. Cử chỉ ấy h́nh thành chúng ta. Chúng ta được đào tạo bởi động tác đó. Ở đây không cần phải nói nhiều. Không nhất thiết phải hiểu mọi thứ trong cử chỉ này. Điều cần thiết là phải đơn sơ bé nhỏ, cả bên truyền đạt cũng như bên tiếp nhận. Phần c̣n lại là công việc của Thánh Thần. Đây là cách chúng ta làm quen với ngôn ngữ biểu tượng. Chúng ta không muốn để ḿnh bị tước mất một gia sản to tát như thế. Khi lớn lên, chúng ta sẽ có thêm nhiều cách khác để hiểu biết, nhưng luôn với điều kiện là chúng ta vẫn c̣n là những người bé mọn.

 

“Ars celebrandi” - Nghệ thuật cử hành Phụng vụ

 

48. Một trong những cách chăm sóc và tăng triển trong sự hiểu biết cần thiết về các biểu tượng trong Phụng vụ, đó là “ars celebrandi” - nghệ thuật cử hành. Có những giải thích khác nhau về biểu thức “ars celebrandi”. Ư nghĩa của nó trở nên rơ ràng nếu chúng ta tham khảo ư nghĩa thần học của Phụng vụ được mô tả trong số 7 của Sacrosanctum Concilium, mà tôi đă nhiều lần đề cập đến. Không được giản lược ars celebrandi vào thái độ tuân giữ cách máy móc các luật chữ đỏ, càng không được coi đó là sáng tạo - có khi là bừa băi -, không có quy tắc. Bản thân nghi thức là một quy định, và quy định không phải là mục đích tự thân, nhưng nó phục vụ cho một thực thể cao hơn mà nó muốn bảo vệ.

 

49. Như bất kỳ nghệ thuật nào, ars celebrandi đ̣i hỏi nhiều loại kiến thức khác nhau. Trước tiên, nghệ thuật này đ̣i hỏi phải hiểu biết về tính năng động trong Phụng vụ. Cử hành phụng vụ là lúc tưởng niệm mầu nhiệm Vượt Qua được hiện tại hóa, để các tín hữu, khi tham dự, có thể cảm nghiệm mầu nhiệm ấy trong cuộc sống. Nếu không có sự hiểu biết này, việc cử hành có thể chỉ bận tâm đến h́nh thức bên ngoài (hơn kém về mức độ tinh tế) hoặc quan tâm đến luật chữ đỏ (hơn kém về tính cứng nhắc). Sau đó, cần phải biết về cách thức Chúa Thánh Thần tác động trong mỗi cử hành. Nghệ thuật cử hành phải ḥa hợp với hành động của Thánh Thần. Chỉ như vậy, nghệ thuật cử hành mới thoát khỏi tính cách chủ quan, chiều theo thị hiếu cá nhân. Chỉ bằng cách này, nghệ thuật cử hành mới thoát khỏi sự xâm nhập của các yếu tố văn hóa chưa được phân định và không liên quan ǵ đến việc hội nhập văn hóa đúng nghĩa.

 

Cuối cùng, cần phải hiểu về tính năng động, về bản chất đặc thù và những hiệu năng của ngôn ngữ biểu tượng.

 

50. Qua những chỉ dẫn ngắn gọn này, rơ ràng là nghệ thuật cử hành không thể tùy tiện, ngẫu hứng. Như bất kỳ nghệ thuật nào, nghệ thuật cử hành đ̣i hỏi sự ứng dụng nhất quán. Đối với một người thợ, kỹ thuật là đủ. Nhưng đối với một nghệ sĩ, ngoài kiến thức kỹ thuật, cần phải có cảm hứng, đây là một dạng thức tích cực của vấn đề sở hữu. Người nghệ sĩ chân chính không sở hữu một nghệ thuật, nhưng đúng hơn người ấy được nghệ thuật chiếm hữu. Không thể học nghệ thuật cử hành bằng cách dự một khóa học về kỹ năng nói trước công chúng hoặc kỹ năng thuyết phục trong giao tiếp. (Tôi không đánh giá về ư hướng, tôi chỉ quan sát các hiệu quả). Công cụ nào cũng có thể hữu ích, nhưng nó phải phục vụ bản chất của Phụng vụ và hoạt động của Chúa Thánh Thần. Phải luôn dành trọn tâm ư cho việc cử hành, để chính việc cử hành truyền tải nghệ thuật cho chúng ta. Guardini viết: “Chúng ta phải hiểu rằng chúng ta đă lún sâu như thế nào vào chủ nghĩa cá nhân và thái độ chủ quan, chúng ta đă trở nên xa lạ như thế nào với những đ̣i hỏi của những điều “cao cả” và các chiều kích trong đời sống đạo của chúng ta nhỏ bé đến mức nào. Chúng ta phải ư thức lại cung cách cao cả của việc cầu nguyện cũng như ư hướng hiện sinh trong lời cầu nguyện. Tuy nhiên, để đạt được điều này, phải tuân giữ kỷ luật, từ bỏ t́nh cảm ủy mị; phải làm việc nghiêm túc, tuân phục Hội Thánh, trong con người và các hành động thờ phượng của chúng ta”.[15] Đó chính là cách học nghệ thuật cử hành.

 

51. Chúng ta có xu hướng nghĩ là chủ đề này chỉ liên quan đến các thừa tác viên đă lănh chức thánh đang thực hiện nhiệm vụ của vị chủ sự. Nhưng trên thực tế, đó là một thái độ mà tất cả những người đă được rửa tội đều được mời gọi để sống. Tôi nghĩ đến tất cả các cử chỉ và lời nói thuộc về cộng đoàn: quy tụ, nghiêm trang đi trong đoàn rước, ngồi, đứng, quỳ, hát, im lặng, tung hô, nh́n, nghe. Có nhiều cách để cộng đoàn, tất cả như một (Nhm 8,1), thông phần vào việc cử hành. Tất cả cùng làm một cử chỉ như nhau, tất cả cùng chung một giọng nói - điều này truyền tải cho mỗi cá nhân năng lượng của toàn thể cộng đoàn. Đó là sự đồng nhất không làm chết đi mà trái lại, dạy cho từng cá nhân tín hữu khám phá ra tính duy nhất đích thực của nhân vị, không phải trong thái độ cá nhân chủ nghĩa nhưng trong nhận thức về việc tất cả là một thân thể. Vấn đề không phải là làm theo một quyển sách về nghi thức phụng vụ. Đúng hơn, theo cách nói của Guardini, đó là “kỷ luật” sẽ đào tạo chúng ta, nếu được chúng ta tuân giữ cách xác đáng. Đây là những cử chỉ và lời nói làm lắng đọng thế giới nội tâm trong chúng ta, giúp chúng ta sống những cảm xúc, thái độ, hành vi nào đó. Những cử chỉ và lời nói đó không phải là lời giải thích về một lư tưởng mà chúng ta đang kiếm t́m để gợi lên cho chúng ta những tâm t́nh cảm nghĩ, nhưng thay vào đó, là một hành động của thân xác trong trạng thái toàn vẹn, nghĩa là trong con người toàn diện với cả thân xác và linh hồn.

 

52. Trong số các động tác nghi lễ dành cho toàn thể cộng đoàn, thinh lặng chiếm một vị trí quan trọng tuyệt đối. Động tác này được quy định rơ trong luật chữ đỏ. Toàn bộ việc cử hành Thánh Thể ch́m đắm trong thinh lặng trước khi bắt đầu và đánh dấu mọi khoảnh khắc của nghi lễ đang diễn ra. Thật vậy, mọi người thinh lặng trong nghi thức sám hối, sau lời mời gọi “Chúng ta hăy cầu nguyện”, trong Phụng vụ Lời Chúa (trước các bài đọc, giữa các bài đọc và sau bài giảng), trong Kinh nguyện Thánh Thể, sau khi hiệp lễ.[16] Thinh lặng không phải là nơi ẩn náu để thu ḿnh trong một kiểu cô lập nội tâm nào đó, như thể muốn rời khỏi những nghi thức làm phân tâm chia trí. Kiểu thinh lặng đó mâu thuẫn với bản chất của cử hành phụng vụ. Thinh lặng trong Phụng vụ là một điều ǵ đó cao siêu hơn nhiều: đây là biểu tượng của sự hiện diện và hành động của Chúa Thánh Thần, Đấng làm sinh động toàn bộ việc cử hành. V́ thế, thinh lặng là cao điểm của một tŕnh tự phụng vụ. Chính v́ là biểu tượng của Thánh Thần, nên thinh lặng có sức mạnh thể hiện hành động đa dạng của Thánh Thần. Theo cách này, trong những khoảnh khắc tôi vừa đề cập, thinh lặng đưa đến tâm t́nh đau buồn v́ tội lỗi và ước muốn được hoán cải, đánh thức tâm trí sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa và cầu nguyện. Chúng ta thinh lặng để tôn thờ Ḿnh và Máu Chúa Kitô. Nơi mỗi người, khi kết hiệp mật thiết với Chúa, thinh lặng gợi lên điều Thánh Thần muốn tác động trong cuộc sống để làm cho chúng ta trở nên tấm Bánh được bẻ ra. V́ tất cả những lư do đó, chúng ta được kêu gọi thực hiện thật sốt sắng phút thinh lặng như một động tác mang tính biểu tượng, để qua đó chúng ta được Chúa Thánh Thần uốn nắn.

 

53. Mỗi cử chỉ và lời nói đều chứa đựng một tác động chính xác luôn mới mẻ, v́ được đặt trong một thời điểm cũng luôn mới mẻ trong cuộc sống chúng ta. Tôi xin giải thích điều này bằng một ví dụ đơn giản. Chúng ta quỳ gối để cầu xin ơn tha thứ, để bẻ gập tính kiêu ngạo, để dâng lên Chúa những giọt nước mắt, để xin Người phù trợ, để cảm ơn Người về một ân huệ đă nhận được. Đó luôn là một cử chỉ tự nó đă cho thấy con người chúng ta thật nhỏ bé trước mặt Chúa. Tuy nhiên, được thực hiện trong những thời điểm khác nhau của cuộc sống, động tác này tạo nên chiều sâu nội tâm để rồi thể hiện ra bên ngoài trong mối tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa và với anh chị em chúng ta. Hăy thực hiện động tác quỳ gối cách nghệ thuật, nghĩa là với nhận thức đầy đủ về ư nghĩa biểu tượng và sự cần thiết của cử chỉ này để thể hiện cách chúng ta hiện diện trước mặt Chúa. Và nếu tất cả những điều vừa nói áp dụng đúng cho cử chỉ đơn giản này, th́ việc cử hành Lời Chúa sẽ c̣n hơn như thế nào nữa? À, vậy th́ chúng ta được mời gọi phải học nghệ thuật nào cho việc công bố Lời, lắng nghe Lời, để Lời Chúa khơi nguồn cho lời cầu nguyện của chúng ta, để Lời Chúa trở thành chính cuộc sống của chúng ta? Tất cả những điều này đáng được quan tâm tối đa - không phải về h́nh thức hay chỉ đơn thuần bên ngoài, nhưng là liên quan đến cuộc sống và đời nội tâm - để từng cử chỉ và lời nói của cử hành phụng vụ, khi được thể hiện cách “nghệ thuật,” sẽ h́nh thành nhân cách Kitô hữu của mỗi cá nhân và của cả cộng đoàn.

54. Nếu toàn thể cộng đoàn phụng vụ cần đến ars celebrandi, th́ các thừa tác viên đă lănh chức thánh càng phải quan tâm đặc biệt hơn. Khi đến thăm các cộng đoàn Kitô hữu, tôi nhận thấy cách họ sống các cử hành phụng vụ - dù tốt hơn hay đáng tiếc là tệ hơn - đều tùy vào cung cách chủ sự của linh mục trong cộng đoàn. Có thể nói là có nhiều “mô h́nh” chủ sự khác nhau. Dưới đây là danh sách những phương pháp dễ nhận ra, mặc dù trái ngược nhau, nhưng tiêu biểu cho cách chủ sự chắc chắn là không phù hợp: khắc khổ cứng nhắc hoặc sáng tạo quá đáng, thần bí hóa hoặc duy chức năng, nhanh chóng vội vàng hoặc chậm chạp quá mức, bất cẩn cẩu thả hoặc tỉ mỉ cực đoan, thân thiện quá mức hoặc vô cảm lạnh lùng. Mặc dù nhiều ví dụ như thế, tôi nghĩ rằng sự bất cập của các mô h́nh chủ sự này có gốc rễ chung: thái độ đề cao bản thân trong phong cách cử hành, đôi khi thể hiện cách lộ liễu thói tật muốn trở thành trung tâm của sự chú ư. Điều này thường được thấy rơ hơn trong các cử hành được phát thanh, truyền h́nh hay trực tuyến trên mạng internet, có điều ǵ đó không phải lúc nào cũng tốt đẹp và v́ thế cần phải nghiên cứu thêm. Xin anh chị em hiểu rơ điều tôi nói: những cách cử hành này không phải là phổ biến nhất, nhưng cho đến bây giờ, nhiều cộng đoàn vẫn c̣n phải khốn khổ v́ những lạm dụng như thế.

 

55. Có lẽ c̣n nhiều điều phải nói về tầm quan trọng và những yêu cầu của việc chủ sự. Tôi đă nhiều lần nói đến nhiệm vụ phải giảng lễ.[17] Ở đây, tôi chỉ nói về một số nhận định tổng quát khác, trong ư muốn cùng anh chị em suy nghĩ về cách chúng ta được đào tạo nhờ Phụng vụ. Tôi nghĩ về việc cử hành đều đặn Thánh lễ Chúa nhật tại các cộng đoàn, và khi nói với các linh mục, cũng ngầm hiểu là với tất cả các thừa tác viên đă lănh chức thánh.

 

56. Linh mục thông phần cách đặc biệt vào việc cử hành phụng vụ nhờ ân sủng của bí tích Truyền Chức Thánh, và điều này thể hiện rơ trong vai tṛ chủ sự. Như tất cả các phận vụ khác, đây không phải là một bổn phận do cộng đoàn giao cho linh mục, nhưng là hệ quả của việc tuôn đổ Thánh Thần trên linh mục trong lễ truyền chức, để trao tác vụ này cho ngài. Linh mục cũng được đào tạo nhờ việc chủ sự trong cộng đoàn phụng vụ.

 

57. Để việc phục vụ này được thực hiện tốt - dĩ nhiên là với nghệ thuật - điều quan trọng cơ bản là linh mục, nhờ ḷng Thiên Chúa xót thương, phải ư thức sâu sắc về sự hiện diện đặc biệt của Chúa Kitô Phục sinh. Chính bản thân thừa tác viên đă lănh chức thánh là một trong những cách thức hiện diện của Chúa, điều này làm cho cộng đoàn Kitô hữu trở nên độc đáo, khác với bất kỳ cộng đoàn nào khác. (x. Sacrosanctum Concilium 7) Sự kiện này mang lại chiều sâu “bí tích” (theo nghĩa rộng) cho tất cả các cử chỉ và lời nói của vị chủ sự. Phải liệu thế nào để qua những cử chỉ và lời nói của chủ sự, cộng đoàn có thể cảm nhận được điều Chúa khát mong, hôm nay cũng như trong Bữa Tiệc Ly, là được ăn lễ Vượt Qua với chúng ta. Như thế, Chúa Phục sinh là nhân vật chính, chứ không phải bản thân non nớt của chúng ta đang đảm nhận những phận vụ và hành động rơ ràng là vượt quá khả năng của con người. Linh mục nên để ḿnh được đong đầy nỗi khao khát hiệp thông mà Chúa dành cho mỗi người. Hăy làm như ḿnh đang đứng giữa trái tim Chúa Giêsu đang bừng cháy lửa yêu thương và trái tim của mỗi tín hữu, đối tượng của t́nh yêu Chúa. Chủ sự bí tích Thánh Thể là đặt ḿnh vào ḷ lửa t́nh yêu của Thiên Chúa. Khi đă hiểu thực tại này, hoặc thậm chí chỉ trực giác về một điểm nào đó, chắc chắn chúng ta sẽ không cần đến một Bản chỉ dẫn nào nữa để có được hành vi thích hợp. Nếu chúng ta c̣n cần đến Bản chỉ dẫn, đó là v́ trái tim chúng ta c̣n cứng cỏi. Tiêu chuẩn cao nhất, và cũng là đ̣i hỏi khắt khe nhất, chính là thực tại của việc cử hành Thánh Thể, thực tại đó sẽ chọn lọc những lời nói, cử chỉ, cảm xúc làm cho chúng ta hiểu được việc chúng ta sử dụng những yếu tố đó có ngang tầm với thực tại mà chúng phục vụ hay không. Rơ ràng đây là việc không thể làm tùy hứng được. Đó là một nghệ thuật. Nó đ̣i hỏi linh mục phải chú tâm, phải chuyên cần nỗ lực để ngọn lửa t́nh yêu Chúa đă mang đến được bùng cháy trên trái đất. (x. Lc 12,49)

 

58. Khi bẻ bánh theo như Chúa truyền dạy, cộng đoàn tiên khởi đă làm dưới ánh mắt của Đức Maria, người đă đồng hành với Hội Thánh trong những bước đi đầu tiên: “Mọi người đều đồng tâm kiên tŕ cầu nguyện, cùng với một số phụ nữ, với Đức Maria, thân mẫu Chúa Giêsu và các anh em Người” (Cv 1,14). Mẹ “dơi theo” những cử chỉ mà Con Mẹ đă trao cho các Tông đồ. Cũng như Mẹ đă bảo toàn Ngôi Lời mặc lấy xác phàm trong ḷng Mẹ sau khi nhận lời của sứ thần Gabriel, giờ đây một lần nữa Mẹ lại bảo toàn trong ḷng Hội Thánh những cử chỉ h́nh thành nên Nhiệm thể Con của Mẹ. Linh mục, người lặp lại những cử chỉ đó do ân sủng đă lănh nhận trong bí tích Truyền Chức Thánh, chính ngài được bảo vệ trong cung ḷng Đức Trinh Nữ. Chúng ta có thực sự cần một quy tắc nào ở đây để bảo cho chúng ta biết phải làm như thế nào không?

 

59. Khi đă trở thành khí cụ để làm bùng cháy ngọn lửa t́nh yêu của Chúa trên trái đất, được che chở trong cung ḷng của Đức Maria, người Trinh Nữ đă làm nên Hội Thánh (như Thánh Phanxicô đă hát về Mẹ), các linh mục phải để cho ḿnh được Chúa Thánh Thần tác động, để Người hoàn tất việc Người đă khởi sự nơi họ trong ngày họ được truyền chức. Tác động của Thánh Thần giúp cho các linh mục có thể thi hành phận vụ chủ sự cộng đoàn Thánh Thể với tâm t́nh kính sợ như Phêrô, ư thức ḿnh là người tội lỗi (Lc 5,1-11), với ḷng khiêm nhường thẳm sâu của người tôi tớ đau khổ (x. Is 42tt), và với mong muốn “được ăn” bởi những người được giao phó cho ḿnh khi thi hành tác vụ hằng ngày.

 

60. Chính việc cử hành đào tạo linh mục hướng đến tŕnh độ và phẩm chất này của người chủ sự. Tôi nhắc lại, đây không phải là thái độ ưng thuận của tâm trí, cho dù toàn bộ tâm trí cũng như tất cả cảm xúc của chúng ta phải tham gia vào đó. Như thế, linh mục được đào tạo qua việc chủ sự với những lời nói và cử chỉ mà Phụng vụ đặt trên môi và trên tay ngài. Linh mục không ngồi trên một ngai ṭa[18] v́ Chúa là Đấng cai trị với sự khiêm nhường của một người phục vụ. Linh mục không được cướp mất sự chú ư phải dành cho tính cách trung tâm của bàn thờ, một dấu chỉ của Chúa Kitô, Đấng mà từ cạnh sườn bị đâm thâu, máu và nước chảy ra để nên nguồn mạch phát sinh các bí tích của Hội Thánh và là tâm điểm của việc ca ngợi và tạ ơn Chúa.[19]

Khi dâng của lễ nơi bàn thờ, linh mục được dạy về đức khiêm nhường và thống hối qua lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương nhận chúng con đang thành tâm khiêm nhường thống hối, và xin cho hy lễ chúng con dâng trước tôn nhan Chúa hôm nay được đẹp ḷng Chúa”.[20] Linh mục không được cậy dựa vào bản thân về tác vụ đă được trao phó, v́ Phụng vụ mời gọi linh mục cầu nguyện để được thanh tẩy qua dấu chỉ nước: “Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội con đă phạm, xin Ngài thanh tẩy”.[21]

Những lời mà Phụng vụ đặt trên môi miệng linh mục có những nội dung khác nhau, đ̣i hỏi những âm giọng đặc biệt. Tầm quan trọng của những lời này đ̣i hỏi một nghệ thuật đọc nói chuẩn xác. Những lời này định h́nh cho những cảm xúc nội tâm, lúc th́ khẩn cầu Chúa Cha nhân danh cộng đoàn, lúc th́ ngỏ lời huấn dụ với cộng đoàn, lúc khác th́ chung lời tung hô với toàn thể cộng đoàn.

Trong Kinh Nguyện Thánh Thể - đang khi tất cả những người đă được rửa tội cũng được tham dự bằng cách lắng nghe với thái độ tôn kính và thinh lặng, đan xen với những lời tung hô[22], th́ chỉ một ḿnh chủ tế mới có quyền nhân danh toàn thể dân thánh để xin Chúa Cha nhớ đến hiến lễ của Chúa Con trong Bữa Tiệc ly, để món quà cao cả đó lại được hiện tại hóa trên bàn thờ. Linh mục thông phần vào hiến lễ đó bằng cách dâng hiến chính ḿnh. Linh mục không thể thuật lại Bữa Tiệc Ly cho Chúa Cha mà không làm cho ḿnh trở thành một người thông phần vào đó. Linh mục không thể nói: “Tất cả các con hăy nhận lấy mà ăn, v́ này là Ḿnh Thầy sẽ bị nộp v́ các con”, mà không sống theo ước nguyện muốn dâng chính bản thân và sự sống cho những người đă được giao phó cho ḿnh. Đây chính là những điều đang xảy ra khi linh mục thi hành tác vụ.

Qua tất cả những điều đó và nhiều điều khác nữa, linh mục liên tục được đào tạo bởi các cử hành phụng vụ.

 

61. Trong thư này, tôi chỉ muốn chia sẻ một số suy tư chắc chắn không sao tận dụng được hết kho tàng bao la của việc cử hành các mầu nhiệm thánh. Tôi xin tất cả các giám mục, linh mục và phó tế, những nhà đào tạo trong các chủng viện, những người hướng dẫn trong các phân khoa thần học và học viện thần học, và tất cả các giáo lư viên, hăy giúp dân Chúa kín múc từ Phụng vụ là ḍng suối đầu tiên của linh đạo Kitô giáo. Chúng ta luôn được mời gọi khám phá lại ư nghĩa phong phú của các nguyên tắc chung được tŕnh bày trong các số đầu tiên của Sacrosanctum Concilium, nắm bắt mối tương quan mật thiết giữa Hiến chế đầu tiên của Công đồng với tất cả các văn kiện khác. Đây là lư do tại sao chúng ta không thể quay trở lại dạng thức nghi lễ mà các nghị phụ Công đồng, cum Petro et sub Petro, cảm thấy cần phải được cải cách, qua việc phê duyệt những nguyên tắc cho công cuộc cải cách ấy dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và theo lương tâm của những người mục tử. Các thánh Giáo hoàng Phaolô VI và Gioan Phaolô II, đă phê chuẩn các sách phụng vụ được cải cách theo sắc lệnh của Thánh Công đồng Đại kết Vatican II, vẫn bảo đảm trung thành với việc cải cách theo Công đồng. V́ lư do này, tôi đă viết Traditionis custodes, để Hội Thánh, bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, dâng lên cùng một lời cầu nguyện duy nhất thể hiện sự hợp nhất.[23]

Như tôi đă viết, tôi mong rằng sự thống nhất này sẽ được tái thiết lập trong toàn thể Hội Thánh theo Nghi thức Rôma.

 

62. Tôi muốn thư này giúp chúng ta khơi dậy sự ngỡ ngàng thán phục trước vẻ đẹp của chân lư trong cử hành phụng vụ Kitô giáo, để nhắc nhở chúng ta về sự cần thiết của việc đào tạo đích thực về phụng vụ, và nhận ra tầm quan trọng của nghệ thuật cử hành để phục vụ cho chân lư của mầu nhiệm Vượt Qua và sự thông phần mầu nhiệm ấy nơi tất cả những người đă được rửa tội, mỗi người tùy theo ơn gọi của ḿnh.

Tất cả sự phong phú này không ở xa chúng ta, nhưng ở ngay trong các nhà thờ, trong các ngày lễ Kitô giáo, trong tâm điểm của ngày Chúa nhật, trong các bí tích chúng ta cử hành. Đời sống Kitô hữu là một hành tŕnh tăng trưởng liên tục. Chúng ta được mời gọi để được đào tạo trong niềm vui và t́nh hiệp thông.

 

63. V́ thế, tôi muốn gửi cho anh chị em một chỉ dẫn nữa để đi tiếp lối đường của chúng ta. Tôi mời anh chị em khám phá lại ư nghĩa của năm phụng vụ và Ngày của Chúa. Cả hai điều này đều do Công đồng để lại cho chúng ta (x. Sacrosanctum Concilium 102-111).

 

64. Dưới ánh sáng của tất cả những ǵ đă nói ở trên, chúng ta thấy rằng năm phụng vụ dành cho chúng ta khả năng tăng trưởng trong sự hiểu biết về mầu nhiệm Chúa Kitô, bằng cách d́m ḿnh vào mầu nhiệm sự Chết và Phục sinh của Người, trong khi chờ đợi Người trở lại trong vinh quang. Đây là cuộc đào tạo trường kỳ thực sự. Cuộc sống chúng ta không phải là một chuỗi sự kiện hỗn tạp ngẫu nhiên nối tiếp nhau. Đúng hơn, đó là một lộ tŕnh rơ rệt, từ việc cử hành sự Chết và sự Phục sinh của Chúa hết năm này đến năm khác, làm cho chúng ta nên đồng h́nh đồng dạng với Người, đang khi chúng ta sống trong niềm hy vọng hồng phúc và mong đợi ngày Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu độ chúng ta ngự đến.[24]

 

65. Theo ḍng thời gian đă trở nên tươi mới nhờ mầu nhiệm sự Chết và Phục sinh của Chúa, cứ mỗi tám ngày, Hội Thánh lại cử hành mầu nhiệm cứu độ trong ngày của Chúa. Ngày Chúa Nhật, trước khi là một lệnh truyền phải giữ, đă là món quà Thiên Chúa ban cho đoàn dân của Người; và chính v́ thế, Hội Thánh muốn bảo toàn ân huệ này bằng một điều luật. Việc cử hành ngày Chúa nhật giúp cho cộng đoàn Kitô hữu được đào tạo bởi bí tích Thánh Thể. Hằng tuần, lời của Chúa Phục Sinh soi sáng sự hiện hữu của chúng ta, để hoàn tất nơi chúng ta điều Chúa muốn khi gửi lời của Người cho chúng ta (x. Is 55,10-11). Hằng tuần, việc rước Ḿnh và Máu Chúa Kitô cũng muốn làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên của lễ đẹp ḷng Chúa Cha, trong t́nh hiệp thông huynh đệ chia sẻ, hiếu khách, phục vụ. Hằng tuần, năng lượng của tấm Bánh được bẻ ra nâng đỡ chúng ta trong việc loan báo Tin Mừng, trong đó thể hiện tính xác thực của việc cử hành phụng vụ.

 

Chúng ta hăy từ bỏ những cuộc tranh luận để cùng nhau lắng nghe điều Thánh Thần đang nói với Hội Thánh. Chúng ta hăy bảo toàn sự hiệp thông. Hăy tiếp tục ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của Phụng vụ. Mầu nhiệm Vượt Qua đă được ban cho chúng ta. Chúng ta hăy đặt ḿnh vào trong nỗi khao khát của Chúa muốn tiếp tục ăn Lễ Vượt Qua với chúng ta. Xin đặt tất cả dưới ánh mắt của Đức Maria, Mẹ Hội Thánh.

 

Ban hành tại Rôma, nơi Đền Thờ Gioan Latran,

ngày 29 tháng 6, Lễ Trọng kính hai Thánh Phêrô và Phaolô, Tông đồ, năm 2022, năm thứ mười trong triều đại Giáo hoàng của tôi.

 

PHANXICÔ


[1] X. Lêô Cả, Sermo LXXIVDe ascensione Domini II, 1: “việc nh́n thấy Đấng Cứu thế đă chuyển sang các bí tích”.

[2] Tiền tụng Phục sinh III : “Người đă bị sát tế nhưng không c̣n chết nữa, dù đă bị giết nhưng vẫn sống luôn măi”.

[3] x. Sách Lễ Rôma, Lễ Đêm Phục sinh.

[4] x. Augustinô, Enarrationes in psalmos. Ps. 138,2; Lời nguyện sau bài đọc VII giờ Canh thức Phục sinh; lời nguyện tiến lễ, lễ cầu cho Hội Thánh mẫu B.

[5] x. Augustinô, In Ioannis Evangelium tractatus XXVI, 13.

[6] x. Thông điệp Mediator Dei (20.11.1947), AAS 39 (1947) 532.

[7] AAS 56 (1964) 34.

[8] R. Guardini Liturgische Bildung (1923) in Liturgie und liturgische Bildung (Mainz 1992) trg 43.

[9] R. Guardini Der Kultakt und die gegenwärtige Aufgabe der Liturgischen Bildung (1964) in Liturgie und liturgische Bildung (Mainz 1992) trg 14.

[10] Nghi thức Truyền chức 1990.

[11] Lêô Cả, Sermo LXIII: De Passione Domini III, 7.

[12] Irenæus Lugdunensis, Adversus hæreses IV,20,7.

[13] R. Guardini Liturgische Bildung (1923) trong Liturgie und liturgische Bildung (Mainz 1992) trg 36.

[14] Cantico delle Creature, Fonti Francescane, trg 263.

[15] R. Guardini Liturgische Bildung (1923) trong Liturgie und liturgische Bildung (Mainz 1992) trg 99.

[16] x. Quy chế tổng quát Sách lễ Rôma số 45; 51; 54-56; 66; 71; 84; 88; 271.

[17] x. Tông huấn Evangelii gaudium(24.11.2013) số 135-144.

[18] x. Quy chế tổng quát Sách lễ Rôma số 310.

[19] Lời nguyện cung hiến nhà thờ và bàn thờ.

[20] Sách lễ Rôma, Nghi thức Thánh lễ.

[21] Sách lễ Rôma, Nghi thức Thánh lễ.

[22] x. Quy chế tổng quát Sách lễ Rôma số 78-79.

[23] x. Phaolô VI, Tông hiến Missale Romanum (3.4.1969) AAS 61 (1969) 222.

[24] Sách lễ Rôma, Nghi thức Thánh lễ.

Nguồn: WHĐ