Đức Mẹ Maria Trong Bộ Giáo Lư


Lm Phaolô Nguyễn Văn Tùng

Đức Mẹ Maria Trong Bộ Giáo Lư

 

Trong toàn bộ giáo lư mới (Catechism of the Catholic Church), với 688 trang và 2865 tiểu đoạn, Đức Maria chỉ chính thức được nhắc tới cách hết sức khiêm nhượng trong hai nơi: Thứ nhất là ở Đoạn hai, Chương hai, Phần thứ nhất về Kinh Tin Kính: "Sinh bởi Đức Nữ Đồng Trinh Maria," trang 122-128. Thứ hai là ở Đoạn sáu, Chương ba, cũng trong Phần thứ nhất, "Đức Maria - Mẹ Thiên Chúa" trang 251-254.

 

Tuy nhiên, nếu đọc hết toàn bộ cuốn giáo lư, người ta sẽ thấy giáo hội c̣n nhắc đến Đức Mẹ ở nhiều nơi khác nữa. V́ vậy, khi nói đến Đức Maria trong bộ giáo lư mới, người đọc cần chia thành những tiểu đề về cả cuộc đời của Đức Mẹ, để qui tụ những tiểu đoạn, nơi Đức Mẹ đă được giáo hội cung kính nhắc đến.

 

ĐỨC MARIA TRONG CHƯƠNG TR̀NH CỨU CHUỘC CỦA THIÊN CHÚA

 

Để trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế, Đức Maria đă được Chúa làm "phong phú với những ơn cần thiết cho sứ mệnh của Mẹ." Thiên Sứ Gabriel tại giây phút của cuộc truyền tin đă chào Mẹ là "đầy ơn phúc." Thực sự, để Đức Maria có thể được tự do nói lên sự bằng ḷng trong đức tin của Mẹ vào sự loan tin về sứ mệnh của Mẹ, việc Mẹ được hoàn toàn sinh ra trong ơn sủng của Chúa là điều cần thiết. (Tiểu đoạn 490 và xem thêm trong các tiểu đoạn 2676, 2853 và 2001)

 

Đức Maria đă được Chúa chọn trước từ thuở đời đời. "Chúa sai Con Trai của Ngài," nhưng để chuẩn bị một thân xác cho Thiên Chúa Con, Ngài đă muốn sự tự do hợp tác của một thụ tạo. Về điều này, từ thuở đời đời Chúa đă chọn người Mẹ cho Con Trai của Ngài, một người nữ thuộc chủng tộc Israel, một thiếu nữ Do Thái ở làng Nazareth trong vùng Galilêa," một trinh nữ đă "đính hôn" - betrothed - (1) với một thanh niên tên là Giuse, thuộc ḍng dơi vua David, và tên của trinh nữ là Maria. (488) cũng tương tự trong (493) và (508).

 

Lần đầu tiên trong chương tŕnh cứu rỗi, và bởi v́ Thánh Linh của Ngài đă chuẩn bị Mẹ, Thiên Chúa Cha đă t́m thấy "nơi ngự trị" cho Con Trai của Ngài và Chúa Thánh Linh cũng có thể ngự giữa loài người. Trong ư nghĩa này, Truyền Thống của Giáo Hội đă thường đọc những văn bản tươi đẹp nhất về sự khôn ngoan trong tương quan với Đức Maria. Đức Maria đă được tung hô và tŕnh bày trong phụng vụ như "Ngai Ṭa Khôn Ngoan." Trong Mẹ, những "mầu nhiệm của Chúa" mà Chúa Thánh Linh sẽ hoàn tất trong Đức Kitô và Giáo Hội đă được biểu hiện." (721 và 484).

 

Chúa Thánh Linh đă chuẩn bị cho Đức Mẹ qua ơn thánh của Ngài. Thật là phù hợp khi Mẹ của Đấng mà trong Bà "đấng thiêng liêng toàn mỹ ngự trị bằng cả thân xác của ngài" nên được "đầy ơn phúc." Chỉ qua ơn sủng, Mẹ đă được thành thai mà không nhiễm tội truyền như một thụ tạo khiêm nhượng nhất, người có khả năng nhất để đón nhận ơn thiêng không thể diễn tả của Đấng Toàn Năng.

 

Thật là chính xác khi thiên sứ Gabriel chào mừng bà là "Con Gái dân Sion": "Hăy vui mừng." Đó là sự tạ ơn của toàn thể Dân Chúa, và v́ vậy của cả Giáo Hội, mà Đức Maria trong lời ngợi khen đă dâng lên Thiên Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần khi đang mang người Con muôn thuở trong ḷng Mẹ. (722 và 489, 2676).

 

ĐỨC MARIA VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI

 

Qua bao thế kỷ, giáo hội đă càng ngày càng trở nên rộng hiểu rằng Đức Maria, "đầy ơn phúc" qua Thiên Chúa đă được cứu rỗi từ giây phút thành thai của Mẹ. Đó là tín lư của sự Vô Nhiễm Nguyên Tội đă được Đức Giáo Hoàng Piô IX công bố vào năm 1854. (491 và 411).

 

"Ánh quang của sự thánh thiện hoàn toàn duy nhất" theo đó Đức Maria được làm cho "phong phú từ khoảnh khắc đầu tiên của sự thành thai của Mẹ" đến hoàn toàn từ Đức Kitô: Mẹ đă được "cứu rỗi, trong một cách đáng ngợi khen hơn, bởi lư do của những công lênh của Con Mẹ."

 

Thiên Chúa Cha chúc lành cho Đức Maria, nhiều hơn bất cứ thụ tạo nào khác, "trong Đức Kitô với từng ơn lành thiêng liêng ở những nơi chốn thiêng liêng" và chọn Mẹ "trong Đức Kitô trước khi thế giới được thành h́nh, để nên thánh và không vương tội trước (nhan thánh) Ngài trong t́nh yêu." (492 và 2011, 1077).

 

Trong suốt thời Cựu Ước, sứ mệnh của bao nhiêu phụ nữ thánh thiện đă chuẩn bị cho sứ mệnh của Đức Maria. Ngay từ thuở ban đầu đă có Bà Evà; mặc dù bất tuân, Bà đă nhận được lời hứa (của Thiên Chúa) cho bà một ḍng dơi sẽ chiến thắng sự dữ, cũng như lời hứa rằng Bà sẽ là Mẹ của mọi loài thụ tạo.

 

Qua hiệu lực của lời hứa này, bà Sarah (vợ tổ phụ Abraham) đă thụ thai một người con trai mặc dù đă đến tuổi ǵa. Ngược với sự dự đoán loài người, Chúa chọn những người yếu kém về quyền hạn cũng như sức lực để nói lên sự trung tín trong những lời hứa của Ngài: Hannah, mẹ của Samuel; Deborah; Ruth; Judith; và Esther; cũng như bao nhiêu phụ nữ khác.

 

Đức Maria "nổi bật trong những kẻ nghèo và khiêm nhượng của Chúa, những người cậy tin và nhận được sự cứu rỗi từ Ngài. Sau một thời gian dài mong đợi, mọi thời đại đă hoàn thành trong Mẹ, người Con Gái được tán dương của dân Sion, và chương tŕnh cứu rỗi mới đă được thành lập." (489 và 722, 410, 145)).

 

ĐỨC MARIA VÀ GIÁO HỘI

 

"Trong khi giáo hội đă thực sự đạt được mức hoàn hảo trong Đức Đồng Trinh Phúc Lạ, bởi Mẹ hiện hữu không t́ vết hay nếp nhăn, th́ các tín hữu vẫn phải cố gắng khắc phục sự tội và thăng tiến trong sự thánh thiện. Và v́ vậy họ hướng mắt nh́n lên Đức Maria": Trong Mẹ, giáo hội đă được "toàn hảo." (829 và 1172, 972)).

Trong sự kết hợp mầu nhiệm giữa con người và Thiên Chúa, Giáo hội hiện hữu trong cả sự hữu h́nh lẫn siêu nhiên, đă nhận thêm một chiều kích nữa: Chiều kích Maria. "Hệ thống (của giáo hội) được hoàn toàn xếp đặt cho sự thánh thiện của các chi thể (các tín hữu) Đức Kitô.

 

Và sự thánh thiện được đo lường theo một 'mầu nhiệm vĩ đại,' theo đó nàng dâu đáp lại bằng qùa tặng t́nh yêu đối với qùa tặng của chàng rể." Đức Maria đă đi trước tất cả chúng ta trong sự thánh thiện, mà sự thánh thiện đó chính là mầu nhiệm của giáo hội như "nàng dâu không t́ vết hay nếp nhăn." Điều này đă giải thích tại sao chiều kích (Đức) "Maria" của giáo hội đă đi trước chiều kích (Thánh) "Phêrô." (773 và 671, 972).

 

Qua việc nói lên lời "Xin vâng" (Fiat) trong cuộc Truyền Tin và sự bằng ḷng trong cuộc Nhập Thể, Đức Maria đă chính thức hợp tác với toàn diện công tŕnh mà Con Mẹ sẽ hoàn tất. Ngài là Mẹ bất cứ nơi nào Đức Giêsu là Đấng Cứu Chuộc và là Thủ Lănh của Nhiệm Thể. (973).

 

Từ thuở giáo hội sơ khai, sau khi Con Mẹ đă về trời, Đức Mẹ đă "hỗ trợ giáo hội bằng những lời cầu nguyện của Mẹ." Qua việc Mẹ kếp hợp với các thánh Tông Đồ và nhiều phụ nữ khác, "chúng ta cũng nh́n thấy Đức Maria qua những lời cầu nguyện của Mẹ khẩn xin ơn Chúa Thánh Thần, Đấng đă bao trùm lấy Mẹ trong cuộc Truyền Tin." (965).

 

Trong mầu nhiệm của giáo hội, vị thế của Đức Maria đă thật tỏ tường: "Đức Trinh Nữ Maria... được công nhận và tôn vinh thật sự là Mẹ của Thiên Chúa và của Đấng Cứu Chuộc... Ngài tỏ tường là Mẹ của các chi thể của Chúa Kitô... V́ qua ḷng từ tâm Mẹ đă ḥa nhập trong việc đem đến cuộc tái sinh của những kẻ có ḷng tin trong giáo hội, là những chi thể của thủ lănh của giáo hội (Đức Kitô)." "Đức Maria, Mẹ của Đức Kitô, Mẹ của Giáo Hội." (963 và 484-507, 721-726).

 

Vai tṛ của Đức Mẹ trong giáo hội không thể tách biệt sự kết hợp của Mẹ với Đức Kitô và từ đó tuôn chảy. "Sự kết hợp này của Mẹ và Con trong công tŕnh cứu chuộc đă được biểu lộ từ thuở Chúa Kitô vô nhiễm trinh thai cho đến khi Ngài chịu tử nạn." (964 và 534, 618).

 

Qua sự kếp hợp của Mẹ với thánh ư của Thiên Chúa Cha, với công tŕnh cứu chuộc của Con Mẹ, và với mọi linh ứng của Chúa Thánh Linh, Đức Trinh Nữ Maria là gương mẫu cho giáo hội về đức tin và đức ái. V́ vậy Mẹ, là một "thành viên tuyệt hảo và... hoàn toàn đặc biệt của Giáo Hội; thực vậy, Mẹ là "gương mẫu" (typus) của Giáo Hội. (967 và 2679, 507).

 

Vai tṛ của Mẹ trong tương quan với giáo hội và toàn thể nhân loại c̣n đi xa hơn nữa. "Trong một cách hoàn toàn đơn thuần, Mẹ đă hợp tác qua sự vâng lời, đức tin, niềm hi vọng, và đức ái bừng cháy trong công tŕnh của Đấng Cứu Thế mang lại đời sống siêu nhiên cho các linh hồn. Với lư do này Mẹ là Mẹ của chúng ta trong trật tự của ân sủng. (968 và 494)).

 

"Thiên chức làm Mẹ của Đức Maria trong trật tự của ân sủng tiếp tục không gián đoạn từ sự ưng thuận mà Mẹ đă tuyên xưng cách trung thành tại cuộc Truyền Tin và Mẹ vẫn kiên trung chịu đựng dưới chân thánh gía, cho đến sự hoàn thành viên măn của mọi người được chọn. Được đưa lên thiên đàng, Mẹ đă không ngưng chức năng cứu rỗi này nhưng qua những lời cầu bầu, tiếp tục trao ban những ân sủng của sự cứu rỗi đời đời... V́ vậy, Đức Trinh Nữ đă được giáo hội tuyên xưng là Đấng Bênh Vực, Trợ Giúp, Ban Ơn, và Trung Gian." (969 và 149, 501, 1370).

 

"Tác động làm Mẹ muôn người của Đức Maria không thể làm mờ hay giảm đi sự trung gian đặc biệt của Đức Kitô, nhưng minh chứng sức mạnh sự trung gian của Ngài. Nhưng ảnh hưởng hữu ích của Đức Maria trên mọi người... tuôn chảy từ sự sung măn của công trạng của Đức Kitô, dựa trên sự trung gian của Ngài, tùy thuộc hoàn toàn vào đó, và nhận được tất cả sức mạnh từ đó."

 

Không tạo vật nào có thể được xếp ngang hàng với Ngôi Lời Nhập Thể và Cứu Chuộc, nhưng chỉ như thiên chức linh mục của Đức Kitô được chia sẻ qua nhiều cách, qua các linh mục và các giáo hữu của Ngài, và như một điều từ tâm của Chúa được tỏa sáng trong nhiều cách giữa các thụ tạo của Ngài, nên cũng vậy sự trung gian đặc biệt của Đấng Cứu Chuộc không gạt bỏ nhưng thực sự làm gia tăng một sự hợp tác bội phần một sự chia sẻ từ nguồn mạch này. (970 và 2008, 1545, 308).

 

"Mọi thế hệ sẽ khen tôi có phúc": "Sự tôn kính của giáo hội đối với Đức Maria là bản chất cho sự thờ kính Kitô giáo." Giáo hội tôn vinh cách chính đáng "Đức Trinh Nữ với một sự tôn kính đặc biệt. Từ những thời kỳ xa xưa nhất, Đức Mẹ đă được tôn vinh với danh hiệu "Mẹ Thiên Chúa," qua sự bảo vệ của Mẹ, các tín hữu vẫn tung tăng trong những hiểm nguy và nhu cầu của họ...

 

Sự tôn kính đặc biệt này... hoàn toàn khác biệt với sự tôn thờ dành cho Ngôi Lời Nhập Thể và ngang hàng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Thánh Thần, và khuyến khích mạnh mẽ sự tôn thờ này." Những nghi thức phụng vụ dành cho Mẹ Thiên Chúa và lời cầu nguyện riêng về Đức Maria, như chuỗi mân côi, một "lược yếu toàn bộ Phúc Âm," diễn tả sự tôn kính này đối với Đức Trinh Nữ Maria. (971 và 1172, 2678).

 

Sau khi đă nói về sự nguyên thủy, sứ mạng, và vận mạng của Giáo Hội, chúng ta không c̣n cách nào để kết luận hơn là việc nh́n vào Đức Maria. Trong Mẹ, chúng ta suy ngắm điều giáo hội đă nằm trong mầu nhiệm của Mẹ, trên cuộc "hành hương đức tin" của chính Mẹ, và Mẹ sẽ là ǵ trên quê hương tại cuối cuộc hành tŕnh của Mẹ. Ở đó, "trong vinh quang của Đấng Cực Thánh và Bất Khả Phân Ba Ngôi Thiên Chúa," "trong sự hiệp thông với tất cả các thánh," Giáo Hội đang mong đợi Đấng mà Giáo Hội tôn vinh là Mẹ của Thiên Chúa và là Mẹ của chính Giáo Hội. (972 và 773, 829).

 

Qua giáo hội, người Kitô hữu học được gương thánh thiện và nhận ra được gương sáng và nguồn mạch trong Đấng toàn thánh Maria; người Kitô hữu nhận chân được điều đó qua sự minh chứng chân chính của những người đă sống điều ấy; người Kitô hữu khám phá được điều đó trong truyền thống thiêng liêng và lịch sử lâu dài của các thánh những người đă đi trước anh/chị ta và phụng vụ cử hành họ trong những âm nhịp ở mức độ chuyên biệt (hay chu kỳ nội cung - sanctoral cycle). (2030 và 828).

 

Đức Maria c̣n là gương mẫu tối thượng của đức tin chân chính. Chỉ đức tin đó mới thấu hiểu được những phương cách nhiệm mầu của quyền năng vô tận của Thiên Chúa. Đức Maria đă tin rằng "chẳng có sự ǵ mà Chúa không làm được," và Mẹ đă có thể tán dương Thiên Chúa: "V́ Ngài là Đấng Cao Trọng đă làm cho tôi những điều trọng đại, và danh Ngài là Thánh." (273 và 148).

 

Điều mà đức tin Công Giáo có về Đức Maria đặt căn bản trên sự tin tưởng vào Đức Kitô, và điều mà giáo hội dạy về Đức Maria sẽ trở lại làm tỏa sáng đức tin của giáo hội trong Chúa Kitô. (487 và 963).

 

THỤ THAI VÀ SINH CON MỘT CỦA THIÊN CHÚA

 

Sứ mệnh của Chúa Thánh Linh luôn luôn được liên kết và nhận lệnh từ Thiên Chúa Con. Chúa Thánh Linh, "là Chúa, Đấng ban sự sống," được sai đi để thánh hóa cung ḷng của Đức Trinh Nữ Maria và làm phong phú cách linh thiêng cung ḷng ấy, làm cho Bà thụ thai Con Một đời đời của Thiên Chúa Cha trong một nhân tính đến từ chính Mẹ. (485 và 689, 723).

 

Đức Maria thực sự là "Mẹ Thiên Chúa" v́ Bà là Mẹ của Con Trai đời đời của Thiên Chúa mặc lấy tính người, Đấng tự Ngài cũng chính là Chúa. (509).

 

Trong Đức Maria, Chúa Thánh Linh hoàn tất chương tŕnh nhân hậu thương yêu của Thiên Chúa Cha. Với và qua Chúa Thánh Linh, Đức Thinh Nữ thụ thai và sinh Con Trai của Thiên Chúa. Bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần và đức tin của Mẹ, sự trinh nguyên của Mẹ đă trở nên đươm hoa kết trái cách độc nhất vô nhị. (723 và 485, 506).

 

NHỮNG TƯỚC HIỆU CỦA ĐỨC MARIA

 

Mẹ Ơn Thiêng: Vai tṛ của Đức Maria trong tương quan với Giáo Hội và toàn thể nhân loại c̣n đi xa hơn v́ Bà là Mẹ của ơn thiêng, đem lại mạch sống thánh thiêng cho mọi linh hồn. (xem thêm trong 968 và 494).

 

Đấng Trung Gian (tuy không là nguồn mạch) của Ơn Chúa: Xin xem lại trong các tiểu đoạn 970 và 2008, 1545 ở trên.

 

Đấng Bầu Cử (cho nhân loại) trước nhan Chúa qua Đức Kitô: Trong 969 và 970. 975: "Chúng ta tin tưởng rằng Đức Mẹ Chúa Trời, Eve mới, Mẹ của Giáo Hội, trên thiên đàng vẫn tiếp tục vai tṛ hiền mẫu của Mẹ nhân danh mọi chi thể của Chúa Kitô." (ĐGH Paul VI, CPG 15).

 

Mẹ Giáo Hội: V́ vai tṛ của Đức Trinh Nữ Maria trong mầu nhiệm của Đức Kitô và Chúa Thánh Linh đă được minh giải; hiện tại, thật là phù hợp để bàn tới vai tṛ của Mẹ trong mầu nhiệm của Giáo Hội. "Đức Trinh Nữ Maria... được công nhận và tôn vinh thật sự là Mẹ Thiên Chúa và của Đấng Cứu Độ... Ngài thật sự là Mẹ những chi thể của Chúa Kitô... Bởi v́, qua t́nh thương, Mẹ đă hợp tác (với Thiên Chúa) để đem lại cuộc tái sinh của các tín hữu trong Giáo Hội, những thành viên của thủ lănh của Giáo Hội." "Đức Maria, Mẹ Đức Kitô, Mẹ của Giáo Hội." (963 và 484-507, 721-726).

 

"Panagia": Các thánh phụ trong truyền thống của Giáo Hội Đông Phương đă gọi Mẹ Thiên Chúa là Đấng "Toàn Thánh" (the All-Holy hay Panagia) và chúc tụng Mẹ là "không nhiễm bất cứ tội ǵ, như được làm cho thích nghi bởi Chúa Thánh Thần và tạo h́nh tượng như một thụ tạo mới." Qua ơn Chúa, Đức Maria đă tránh được mọi tội cá nhân trong suốt cuộc đời của Mẹ. (493).

Nhân Cách Hóa của Giáo Hội: Cùng một lúc là nữ trinh và là mẹ, Đức Maria là biểu tượng và là hiện thực hoàn hảo của Giáo Hội: "Giáo Hội thực sự... qua việc nhận lănh lời của Chúa trong đức tin đă tự trở nên một người mẹ.

 

Trong việc rao giảng và làm phép Rửa, Giáo Hội đem lại những người con, được Đức Chúa Thánh Thần cưu mang và sinh bởi Thiên Chúa, đến cuộc sống mới vĩnh cửu. Tự Giáo Hội cũng là trinh nữ ǵn giữ trong sự hoàn toàn và trong sạch đức tin mà nàng đă đoan thệ cùng phu quân của nàng. (507 và 967, 149).

 

"Theotokos": Được các Phúc Âm gọi là "Mẹ của Chúa Giêsu," Đức Maria được thánh Isave (Elizabeth) tung hô qua sự linh ứng của Chúa Thánh Linh và trước khi hạ sinh con trai của Bà, là "mẹ của Chúa tôi." Thực sự, Đấng mà Mẹ đang cưu mang như con người qua Chúa thánh Thần, sẽ hoàn toàn trở nên Con Mẹ theo xác thể (loài người), không ai khác mà chính là Con Trai đời đời của Thiên Chúa Cha, ngôi hai của Ba Ngôi Thiên Chúa. V́ vậy Giáo Hội tuyên xưng rằng Đức Maria thực sự là "Mẹ Thiên Chúa" (Theotokos. 495 và 466, 2677).

 

Ngai Ṭa Khôn Ngoan: Xin xem lại các tiểu đoạn 721 và 484 ở trên.

 

Khuôn mẫu (typus) của Giáo Hội: Xin xem lại các tiểu đoạn 967 và 2679, 507 ở trên.

 

NHỮNG NHÂN ĐỨC CỦA MẸ MARIA

 

Sự vâng lời trong đức tin của Đức Maria: Vâng lời, theo tiếng La tinh obaudire: lắng tai nghe, trong đức tin là tự do phục tùng lời nói đă nghe thấy, v́ sự thật của lời nói đă được Chúa bảo đảm, Đấng tự ḿnh là Sự Thật. Ông Abraham đă là gương mẫu của sự vâng lời này mà Kinh Thánh đă cống hiến cho chúng ta. Đức Trinh Nữ Maria là hiện thân hoàn hảo nhất của sự vâng lời này. (144 và 494, 511).

Lời cầu nguyện của Đức Maria: Lời cầu nguyện của Đức Maria mạc khải cho chúng ta trong buổi b́nh minh của thời đại hoàn hảo. Trước khi có sự nhập thể của Con Thiên Chúa, và trước khi Chúa Thánh Linh dào dạt ban ơn, lời cầu nguyện của Mẹ hợp tác trong một cách đặc biệt với chương tŕnh yêu thương trọn vẹn của Thiên Chúa Cha: tại cuộc truyền tin, khi Chúa Kitô được thành thai, ở lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, cho cuộc h́nh thành của Giáo Hội, nhiệm thể của Ngài.

 

Trong đức tin của người nữ t́ khiêm nhượng của Ngài, Ơn Thánh của Chúa nhận được sự ưng thuận mà Ngài đă chờ đợi từ thuở khai nguyên. Người nữ t́ mà Đấng Toàn Năng đă làm cho "đầy ơn phúc" đáp lại qua việc phó dâng hoàn toàn con người của Bà: "Này tôi là tôi tớ Chúa, xin vâng như lời Thánh Thiên Thần truyền." "Xin vâng" (fiat): đây là lời cầu nguyện Kitô giáo: theo thánh ư Chúa hoàn toàn, bởi v́ Ngài hoàn toàn thuộc về chúng ta. (2617 và 148, 494, 490).

 

Sự trinh nguyên của Đức Maria: Từ những h́nh thức đầu tiên của đức tin, Giáo Hội đă tuyên xưng rằng Đức Giêsu được thụ thai hoàn toàn bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần trong cung ḷng Đức Trinh Nữ Maria, cũng xác định phương diện hữu h́nh của sự kiện này: Đức Giêsu được thụ thai "bởi Chúa Thánh Linh, không bởi mầm sống của con người." Các Thánh Phụ nh́n thấy trong sự thụ thai trinh nguyên dấu chỉ thực sự là Con Thiên Chúa đă đến trong xác phàm như thân xác của chúng ta. (496-507 và 510, 506, 502-6, 499, 497-8, 500).

 

ĐỨC MARIA HỒN XÁC LÊN TRỜI

 

Cuối cùng, Đức Trinh Nữ Không Mắc Tội Truyền, được ǵn giữ khỏi những t́ ố của tội nguyên tổ, khi cuộc sống thế trần chấm dứt, Mẹ đă được Chúa đưa cả hồn lẫn xác lên vinh quang nước Trời và được Chúa cho vinh hiển là Nữ Vương của mọi loài, để Mẹ có thể hoàn toàn ḥa hợp với Con Mẹ, Chúa các chúa và là Đấng đă chinh phục tội lỗi và sự chết. Việc Đức Mẹ hồn xác lên Trời là một sự tham dự đơn thuần vào cuộc Phục Sinh của Con Mẹ và đi trước việc Phục Sinh của những Kitô hữu khác. (966 và 484-507, 721-726; cũng tương tự trong 974).

 

---------------------------------------------------

Ghi chú:

 

(1): Theo truyền thống của dân Do Thái (Israel) nghi thức "betrothal", được dịch qua những ngôn ngữ khác, kể cả tiếng Việt là "hứa hôn." Điều này đă gây nhiều hiểu lầm v́ ư nghĩa của chữ betrothal rất khác với ư nghĩa của chữ hứa hôn (engagement) theo truyền thống Việt Nam cũng như nhiều nước khác.

 

Hứa hôn theo ư nghĩa chung không đ̣i hỏi ràng buộc nhiều, đó thực sự chỉ là một lời... hứa. Đôi trai gái có thể dễ dàng "trả nhẫn" cho nhau, nếu không muốn tiếp tục đi đến hôn nhân, mà không gặp trở ngại nào của xă hội. Khi đó, họ chưa phải là vợ chồng.

 

Ngược lại, betrothal trong truyền thống Do Thái vào thời của Đức Mẹ và thánh Giuse (trong thời kỳ Tamuldic, khoảng từ thế kỷ thứ I B.C. cho đến thế kỷ thứ VI A.D.), hầu như bắt buộc đôi trẻ phải đi tới hôn nhân. Nếu họ phá bỏ betrothal th́ sẽ bị luật phạt. Thứ hai, sau khi betrothed hay espoused, người con trai đă có thể đưa cô gái "về nhà ḿnh" và đă được người đời coi là vợ chồng.

 

Đám cưới chỉ đến như một sự "chính thức hóa" đôi hôn phối. Thứ ba, khoảng thời gian của betrothal không có giới hạn, thường là một năm và một ngày, theo truyền thống Do Thái; nhưng có khi lâu hơn v́ một bên c̣n quá nhỏ, tương tự như tục "tảo hôn" ở Việt Nam xưa; hoặc sớm hơn - chỉ một tháng - như trường hợp cả hai ông bà cùng "góa."

 

Điều này đă giải thích những nghi vấn về cuộc hôn nhân giữa thánh Giuse và Đức Mẹ. Theo Phúc Âm thánh Matthêô 1:18, th́ hai đấng đă "betrothed" nhưng chưa về sống chung với nhau. Tuy nhiên, theo truyền thống Do Thái, hai đấng đă được người đời coi là "vợ chồng" rồi (Matt. 1:19). V́ vậy, khi biết Đức Mẹ đă mang thai, nếu thánh Giuse tố cáo Đức Mẹ có thai mà hài nhi không phải là con của ngài, Đức Mẹ sẽ bị kết án là ngoại t́nh và bị xử tử, theo cách ném đá cho đến chết!

 

Là một người chính trực, nhưng thánh Giuse đă không nhẫn tâm đến như vậy, ngài chỉ muốn "âm thầm" bỏ Đức Mẹ mà không tố cáo thêm điều ǵ, điều này sẽ khiến người đời nghĩ rằng con trẻ Giêsu chính là con của thánh Giuse, do đó Đức Mẹ sẽ không bị "rắc rối" ǵ với "làng nước." Dĩ nhiên, sau đó Chúa đă can thiệp làm cho thánh Giuse hiểu về Hài Nhi Thánh và ngài đă đưa Đức Mẹ về nhà ḿnh

 

Nguồn: Conggiao.info

 

(Theo "JewishEncyclopedia.com và Wikipedia.com)