HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
BẢN TỔNG HỢP TOÀN QUỐC
THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM
MỤC CẤP GIÁO PHẬN
“Hướng tới một Hội
Thánh hiệp hành: hiệp thông, tham gia, sứ vụ”
Hội Thánh Công giáo tại Việt Nam gồm 27 Giáo phận với số
giáo dân 7.294.713 người, chiếm tỉ lệ 7,21% trên tổng dân số
tại Việt Nam. Hai mươi bảy Giáo phận hiện diện trên khắp mọi
miền đất nước với những đặc điểm khác nhau: nông thôn hay
thành thị; thuần túy người Kinh hoặc vừa có các tín hữu
người Kinh vừa có các tín hữu thuộc dân tộc ít người; tùy
theo địa bàn, tỉ lệ người Công giáo cao (10% - 30% dân số)
hoặc rất thấp (từ 0,3% - 3%).
Đáp lại lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô, Hội Thánh
Việt Nam tích cực tham gia Thượng Hội Đồng Giám Mục cấp Giáo
phận. Theo quyết định của Hội đồng giám mục Việt Nam, 27
Giáo phận trên cả nước đă cử hành Thánh Lễ khai mạc vào Chúa
nhật I Mùa Vọng, ngày 28/11/2021. Trong suốt tiến tŕnh hiệp
hành này, các cộng đoàn tín hữu thường xuyên cầu nguyện cho
Thượng hội đồng được tiến hành cách tốt đẹp trong ánh sáng
và sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Sau giai đoạn thỉnh ư Dân Chúa, các Giáo phận đă làm bản
tổng kết của mỗi Giáo phận và gửi về Văn pḥng thư kư Hội
đồng giám mục ngày 15/7/2022. Dựa trên những tổng kết của
các Giáo phận, Văn pḥng đă thực hiện bản Tổng hợp toàn quốc
này, được tŕnh bày theo ba phần chính, cũng là ba bước của
tiến tŕnh hiệp hành: (1) Gặp gỡ; (2) Lắng nghe; (3) Phân
định.
Phần I. GẶP GỠ
1. Để chuẩn bị cho việc tiến hành Thượng
Hội Đồng Giám Mục, các Giáo phận đă h́nh thành Ban linh hoạt
giáo phận và huấn luyện các điều phối viên để phục vụ các
buổi gặp gỡ thỉnh ư Dân Chúa. Sau Thánh Lễ khai mạc, Ban
linh hoạt phổ biến tài liệu và hướng dẫn học hỏi về Thượng
Hội Đồng Giám Mục lần thứ XVI để các thành phần Dân Chúa
hiểu đúng về bản chất, mục đích và các phương thế thực hiện
tiến tŕnh hiệp hành.
2. Tiến tŕnh thỉnh ư Dân Chúa được thực
hiện qua các buổi gặp gỡ ở nhiều cấp: (1) giáo xứ và các
cộng đoàn ḍng tu; (2) giáo hạt và các ḍng tu; (3) cuối
cùng, Giáo phận tiến hành Hội nghị Tiền Thượng Hội Đồng Giám
Mục để thống nhất các ư kiến chính và đúc kết thành bản tổng
kết của Giáo phận. Ngoài những cuộc gặp gỡ trực tiếp trên,
nhiều Giáo phận cũng thỉnh ư Dân Chúa qua các phương tiện
truyền thông: gặp gỡ trực tuyến hoặc gửi phiếu thỉnh ư đến
các tín hữu.
3. Nh́n chung, khoảng 35% các tín hữu đă
tham gia vào tiến tŕnh gặp gỡ và thỉnh ư. Họ tham gia cách
tích cực, nhiệt t́nh, đóng góp nhiều ư kiến thiết thực, và
mong muốn có thêm những cuộc gặp gỡ thỉnh ư trong tương lai.
Họ cảm nhận niềm vui khi tham gia tiến tŕnh hiệp hành v́
(1) cảm nhận một luồng gió mới đang thổi vào đời sống Hội
Thánh; (2) được lắng nghe và góp ư cho việc xây dựng Hội
Thánh; (3) cảm nhận ḿnh thuộc về Hội Thánh cách rơ nét hơn.
Trở ngại lớn của tiến tŕnh thỉnh ư là thời gian có hạn, hơn
nữa lại trong giai đoạn dịch Covid-19 nên không thể triển
khai đầy đủ hơn.
Phần II. LẮNG NGHE
Có thể tóm kết ư kiến của mọi thành phần Dân Chúa theo một
số chủ đề sau.
1.
Hiệp thông
1.1. Hầu hết mọi người cảm nhận và khẳng định tinh
thần hiệp thông giữa mọi thành phần Dân Chúa trong Hội
Thánh. Nhiều người ngoài Công giáo cũng đánh giá cao về tinh
thần đoàn kết, yêu thương và hiệp nhất của Hội Thánh Công
giáo.
1.2. Tuy nhiên cũng có những hoàn cảnh chưa hiệp
thông trọn vẹn với Hội Thánh: anh chị em di dân ngoại kiều
cũng như nội địa cảm thấy ḿnh bị bỏ rơi v́ không được quan
tâm, không biết ḿnh thuộc về đâu, đôi khi có cảm giác bị
xua đuổi; các đôi hôn phối đă ly dị và tái hôn thấy ḿnh như
ở bên lề Hội Thánh; những người khô khan nguội lạnh hoặc
vướng vào các tệ nạn xă hội xa lánh những sinh hoạt trong
Hội Thánh.
1.3. Về những rào cản cho sự hiệp thông, có những
lư do khách quan như v́ hoàn cảnh phải sống xa giáo xứ nên
không tham gia các sinh hoạt và dần xa cách; cũng có lư do
chủ quan như năo trạng cục bộ địa phương, mặc cảm tự ti về
tŕnh độ hoặc khả năng. Các chủ chăn cũng có phần trách
nhiệm về điều này: đa số các chủ chăn luôn sẵn sàng đón
tiếp, gặp gỡ, lắng nghe mọi thành phần Dân Chúa, nhưng cũng
c̣n một số linh mục ứng xử cách độc đoán, gia trưởng với
giáo dân.
1.4. Trong thời đại ngày nay, các phương tiện
truyền thông là phương thế kết nối con người với nhau; tuy
nhiên truyền thông cũng có thể bị lạm dụng để gây chia rẽ,
hận thù, nghi kỵ, tác động tiêu cực đến đời sống tín hữu. V́
thế cần quan tâm đến đạo đức truyền thông.
2.
Lắng nghe
2.1. Tham
gia tiến tŕnh thỉnh ư là cơ hội để khám phá tầm quan trọng
của việc lắng nghe, từ đó nhận ra rằng nghe th́ có nhưng
lắng nghe với cả khối óc và con tim th́ chưa! Lắng nghe
những người cùng quan điểm với ḿnh th́ dễ nhưng không đem
lại nhiều thành quả, cần lắng nghe những ư kiến khác, thể
hiện những cách nh́n và cách nghĩ khác, nhờ đó có thể xem
xét vấn đề cách toàn diện hơn.
2.2. Những cản trở trong việc lắng nghe là sự chênh
lệch tuổi tác, nếp suy nghĩ, giới tính, năng lực, nhất là
tính kiêu căng, tự măn, “cái tôi” quá lớn của mỗi người,
cách riêng là những người lănh đạo. Cần phải dẹp bỏ cái tôi
ấy để có thể nghe được tiếng nói của Thánh Thần nhiều khi
đang nói qua “những người bé mọn” trong Hội Thánh (x. Mt
11,25).
2.3. Văn hóa Á Đông có khuynh hướng trọng nam khinh
nữ, đề cao tôn ti trật tự, do đó cũng là rào cản cho việc
lắng nghe nữ giới và những người nghèo trong xă hội và trong
Hội Thánh.
3.
Lời Chúa và Thánh Thể
3.1. Các
giáo dân lớn tuổi bày tỏ sự quan ngại về t́nh trạng nhà thờ
ngày càng vắng bóng người trẻ. Tuy số người dự lễ Chúa nhật
c̣n khá đông nhưng ḷng yêu mến và sùng kính Bí tích Thánh
Thể c̣n hời hợt, việc tham dự Thánh Lễ chỉ như một bổn phận
đạo đức phải thực hiện, chưa có sự nối kết giữa đời sống và
mầu nhiệm Thánh Thể được cử hành. Mong các linh mục cử hành
Thánh Lễ - nhất là Thánh Lễ Chúa nhật cách sốt sắng, từ lễ
phục đến tư thế, thái độ khi dâng lễ.
3.2. Tiến tŕnh hiệp hành giúp các tín hữu cảm
nghiệm sâu sắc hơn về việc lắng nghe Lời Chúa, đồng thời nêu
lên mối quan tâm về bài giảng lễ của các linh mục. Trong
thực tế, với phần đông tín hữu, dự lễ Chúa nhật là cơ hội
duy nhất để lắng nghe Lời Chúa, v́ thế các linh mục cần
chuẩn bị bài giảng cho chu đáo: bám sát Lời Chúa, là hoa
trái của suy tư và cầu nguyện, tŕnh bày dễ hiểu và liên hệ
thực tế. Được như thế, việc giảng lễ vừa làm phong phú đời
sống thiêng liêng của linh mục vừa nuôi dưỡng đời sống đức
tin của cộng đoàn.
3.3. Ngoài việc lắng nghe Lời Chúa trong Thánh Lễ,
nhiều gia đ́nh đă có thói quen đọc Lời Chúa trong các giờ
kinh tối của gia đ́nh; nhiều người cũng t́m đọc Lời Chúa khi
gặp những khó khăn trong cuộc sống hoặc khi phải đưa ra một
quyết định quan trọng. Với nhiều tín hữu, Lời Chúa thực sự
là lương thực bổ dưỡng và ánh sáng soi đường cho họ.
3.4. Tại các Giáo phận có các dân tộc ít người,
Giáo phận đă đẩy mạnh việc dịch Kinh Thánh sang tiếng dân
tộc. Đồng thời các linh mục, tu sĩ cố gắng học tiếng dân tộc
để có thể lắng nghe người dân và truyền tải Lời Chúa cho họ.
3.5. Các tín hữu rất cần những hướng dẫn cụ thể từ
phía Hội Thánh để làm sao vừa cử hành các nghi thức phụng vụ
cho đúng, vừa hài ḥa với bản sắc văn hóa địa phương. Ước
mong có được những hướng dẫn cụ thể trong các lănh vực phụng
tự, văn hóa, thánh nhạc.
4.
Tham gia: b́nh đẳng và đồng trách nhiệm
4.1. Phần đông tín hữu cảm thấy vui, vinh dự và
hạnh phúc khi được tham gia phục vụ Nhà Chúa. Những buổi gặp
gỡ giúp người tín hữu ư thức hơn về sự b́nh đẳng về phẩm giá
cũng như trong hoạt động xây dựng Hội Thánh.
4.2. Các linh mục không nên coi những người tham
gia Hội đồng giáo xứ như những người thừa hành, nhưng như
những cộng sự viên của các ngài.
4.3. Các ḍng tu tích cực tham gia hoạt động mục
vụ, tuy nhiên ở một vài nơi, hoạt động mục vụ của các ḍng
tu chưa thực sự ăn khớp với các hoạt động mục vụ của Giáo
phận.
5.
Phát biểu
5.1. Vẫn có t́nh trạng giáo dân, tu sĩ, linh mục
c̣n e dè không dám lên tiếng trước cách hành xử độc đoán của
bề trên v́ sợ bị trù giập. Không dám nói lên sự thật, không
dám góp ư với chủ chăn nhưng lại bàn tán với nhau và phê
phán sau lưng. Nhiều người ngại phát biểu v́ tự ti mặc cảm
(về trí thức hoặc đời sống luân lư), hoặc cho rằng ḿnh
không có thẩm quyền để góp ư trong những lănh vực chuyên môn
của Hội Thánh.
5.2. Giáo dân tích cực tham gia xây dựng cơ sở vật
chất tại các giáo xứ, tuy nhiên có những nơi quá tập trung
vào việc này đến nỗi giáo dân cảm thấy là gánh nặng cho họ.
6.
Sứ vụ
6.1. Việc loan báo Tin Mừng mới chỉ ngưng ở chỗ
“cha truyền con nối”, chưa mạnh dạn vươn ra bên ngoài. Ư
thức mỗi Kitô hữu đều là môn đệ thừa sai c̣n yếu nơi người
giáo dân.
6.2. Nhiều lư do để giải thích t́nh trạng này: Giáo
phận chưa thực sự đặt sứ mạng loan báo Tin Mừng lên hàng
đầu; thiếu sự gương mẫu trong đời sống một số chủ chăn; kiến
thức giáo lư của tín hữu chưa đủ vững nên ngại nói về Chúa;
mặc định rằng đây là việc của các giáo sĩ và tu sĩ.
6.3. Để thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng, thách đố
lớn nhất là chính các tín hữu phải thực sự là môn đệ Chúa
Kitô và sống Tin Mừng của Ngài. Loan báo Tin Mừng không phải
là chiêu dụ tín đồ nhưng là sự chia sẻ và giới thiệu vẻ đẹp
của Tin Mừng cho mọi người.
7.
Dấn thân phục vụ xă hội, bác ái xă hội
7.1. Công tác bác ái xă hội được nhiều người hưởng
ứng v́ là việc làm phù hợp với Lời Chúa và truyền thống văn
hóa Việt Nam. Tuy nhiên cũng có cảnh báo về nguy cơ làm việc
bác ái v́ chuộng thành tích, đánh bóng tên tuổi, hoặc làm
theo phong trào.
7.2. Ư thức xă hội c̣n kém. Mong muốn có những buổi
chia sẻ về các vấn đề xă hội như Bảo vệ sự sống, Chăm sóc
môi trường, Pḥng tránh các tệ nạn xă hội, Pḥng chống
HIV/AIDS.
8.
Đối thoại
8.1. Đối thoại với các tôn giáo bạn là việc quan
trọng và cần thiết, nhưng để có thể đối thoại thực sự, người
tín hữu Công giáo phải có nền tảng đức tin và giáo lư vững
chắc, cùng với thái độ thể hiện sự tôn trọng các tôn giáo
khác.
8.2. Đă có nhiều sáng kiến mục vụ tạo sự gần gũi
với lương dân: mời anh chị em lương dân đến tham dự, chia sẻ
và giao lưu trong các dịp lễ lớn của Công giáo; thăm viếng
các gia đ́nh lương dân trong hoàn cảnh khó khăn.
Phần III. PHÂN ĐỊNH
Lắng nghe tiếng nói của mọi thành phần Dân Chúa trong bầu
khí cầu nguyện, chúng tôi cũng lắng nghe tiếng gọi của Thánh
Thần Thiên Chúa.
1.
Về hiệp thông
1.1. Trong thời kinh tế thị trường, di cư để t́m
công ăn việc làm là t́nh trạng phổ biến. Rời bỏ làng quê
quen thuộc để hội nhập vào môi trường sống mới là thách thức
lớn cho anh chị em di dân. Trong đời sống đức tin cũng thế,
nếu không được nâng đỡ và đồng hành, nhiều anh chị em sẽ cảm
thấy ḿnh bị bỏ rơi v́ không biết ḿnh thuộc về đâu, đôi khi
c̣n có cảm giác bị xua đuổi. Các Giáo phận cần quan tâm đến
nhu cầu mục vụ này nhiều hơn và có những hướng dẫn cụ thể
cho các linh mục trong việc chăm sóc mục vụ cho anh chị em
di dân.
1.2. Với những đôi hôn phối đă ly dị và tái hôn,
các mục tử cần có thái độ mục vụ thích hợp, giúp họ cảm nhận
ḿnh vẫn là thành viên trong gia đ́nh Hội Thánh. Có Giáo
phận đề nghị Hội đồng giám mục nên có hướng dẫn cụ thể để
giải quyết cho các đôi hôn phối đă đổ vỡ lâu năm và không
thể hàn gắn; quy định rơ về thời gian nhất định mà Hội Thánh
cần để đưa ra phán quyết về Bí tích Hôn Phối của đương sự đă
đệ đơn xin công bố hôn nhân vô hiệu. Vấn đề là phải làm thế
nào để sự đồng hành này vừa không làm giảm bớt giá trị của
Tin Mừng về hôn nhân bất khả phân ly, vừa thể hiện ḷng
thương xót vô biên của Cha trên trời, nhờ đó những người ly
dị tái hôn cảm thấy ḿnh không bị loại trừ nhưng vẫn là
thành viên sống động trong gia đ́nh Hội Thánh.
1.3. Nhiều gia đ́nh trẻ cho rằng Hội Thánh quá ngặt
nghèo về việc tiết chế trong đời sống t́nh dục vợ chồng, và
mong Hội Thánh cảm thông cho họ khi phải dùng đến những
phương pháp tránh thai nhân tạo như một phương thế chẳng
đặng đừng để ǵn giữ hạnh phúc gia đ́nh.
1.4. Chính các giám mục, linh mục, tu sĩ phải là
những người đi bước trước và nêu gương về sự hiệp thông. Các
giám mục nên chủ động đến với các linh mục để lắng nghe
những tâm tư nguyện vọng của các linh mục, nhờ đó các linh
mục cảm nhận sự gần gũi với giám mục. Giáo dân mong muốn các
linh mục sống khó nghèo và giản dị, gần gũi với mọi người,
nhất là người nghèo và những hoàn cảnh bất hạnh. Cản trở lớn
nhất của hiệp thông là “cái tôi” quá lớn của mỗi người, nhất
là những người lănh đạo. V́ thế lời mời gọi của Chúa Giêsu:
“Hăy học cùng Ta v́ Ta hiền lành và khiêm nhường trong ḷng”
(Mt 11,29) cần thiết hơn bao giờ trong một Hội Thánh hiệp
thông.
1.5. Hiện nay các tín hữu người dân tộc có tỉ lệ
khá đông trong tổng số giáo dân Việt Nam, v́ thế Hội đồng
giám mục Việt Nam nên nhắc tới họ trong các Thư Mục Vụ,
khuyến khích họ tham gia vào các hoạt động chung của Hội
Thánh và thi hành sứ vụ cách nhiệt thành hơn.
2.
Về tham gia
2.1. Đại hội Dân Chúa 2010 kêu gọi mọi tín hữu Việt
Nam: “Chúng ta nên mạnh dạn và nhanh chóng rời bỏ những cách
hành xử “bao cấp” hay “quan liêu”, theo kiểu giáo sĩ cung
ứng tất cả mọi sự, giáo dân phải lệ thuộc giáo sĩ, để xây
dựng một Hội Thánh tham gia”. Lời kêu gọi ấy vẫn c̣n mang
tính thời sự. Hơn ai hết, những người có trách nhiệm lănh
đạo trong Hội Thánh cần tránh thái độ trịch thượng và lạm
quyền, biết khiêm tốn lắng nghe nhiều hơn.
2.2. Các cộng đoàn Hội Thánh cơ bản là phương thế
hữu hiệu để mời gọi và cổ vơ sự tham gia v́ là những nhóm
nhỏ cùng một địa phương, ở đó mọi người dễ dàng gặp gỡ nhau,
lắng nghe nhau, chia sẻ Lời Chúa, và cùng nhau phân định
thánh ư Thiên Chúa trong hoàn cảnh sống cụ thể. V́ thế nơi
nào có thể, nên thúc đẩy việc h́nh thành các cộng đoàn trên
trong mối hiệp thông với các cha xứ tại địa phương.
2.3. Để diễn tả và cổ vơ sự tham gia của mọi thành
phần Dân Chúa vào sứ vụ của Hội Thánh, phải chăng Hội Thánh
nên trao tác vụ đọc sách và giúp lễ cho các nữ tu hoặc các
tín hữu nữ xứng hợp? Cũng nên cổ vơ sự tham gia của người nữ
vào những cơ cấu như Hội đồng giáo xứ.
3.
Về sứ vụ
3.1. Đức Thánh Cha Phanxicô thường nhắc nhớ mọi
Kitô hữu đều là môn đệ thừa sai, tuy nhiên ư thức này c̣n
yếu kém nơi các tín hữu, họ coi việc loan báo Tin Mừng là
việc của các giáo sĩ và tu sĩ. V́ thế cần vun trồng ư thức
này nơi các tín hữu để họ làm chứng cho Tin Mừng ngay trong
môi trường sống và làm việc hằng ngày. Chúng tôi đặc biệt
quan tâm đến giới giáo chức và giới y tế Công giáo. Tại Việt
Nam, Hội Thánh không có các cơ sở giáo dục, y tế, tuy nhiên
rất nhiều tín hữu Công giáo đang làm việc trong lănh vực này
với tư cách là thầy cô giáo, bác sĩ, nhân viên y tế. Nếu các
tín hữu này thực sự ư thức ḿnh là các môn đệ thừa sai,
chứng từ của họ trong môi trường làm việc sẽ là cơ hội rất
tốt để giới thiệu vẻ đẹp của Tin Mừng.
3.2. Nhiều tân ṭng không c̣n thực hành đức tin sau
khi chịu Phép Rửa, nhất là những người nam chịu Phép Rửa để
kết hôn. V́ thế cần có sự chuẩn bị chu đáo trước khi chịu
Phép Rửa, đồng thời cần có sự đồng hành với các tân ṭng sau
khi được rửa tội.
3.3. Để phục vụ công cuộc loan báo Tin Mừng, một số
Giáo phận đă có chương tŕnh đào tạo các tác viên truyền
giáo: huấn luyện về giáo lư đức tin, về sứ vụ, về cách ứng
xử khi đến với lương dân. Tại một vài Giáo phận khác, các
linh mục mời gọi tu sĩ và giáo dân h́nh thành các nhóm
truyền giáo, cùng nhau cầu nguyện, thăm viếng các gia đ́nh
lương dân trong địa bàn và giúp đỡ họ khi cần thiết. Đây là
những việc làm rất tốt và cần được nhân rộng ra nhiều nơi.
3.4. Sống trong xă hội đa tôn giáo và Công giáo chỉ
là thiểu số, kinh nghiệm dạy chúng ta rằng đối thoại bằng
cuộc sống là cuộc đối thoại thường xuyên và hiệu quả nhất
với các tôn giáo khác. Tương tự như thế, trong tương quan
với xă hội dân sự, dù vẫn tồn tại những thành kiến từ cả hai
phía, Hội Thánh luôn mong muốn đối thoại thẳng thắn và cộng
tác chân thành nhằm phục vụ ích chung của cộng đồng xă hội.
3.5. Trong thời đại truyền thông kỹ thuật số, việc
vận dụng phương tiện truyền thông để loan báo Tin Mừng là
đ̣i hỏi cần thiết, nhờ đó có thể đồng hành và lắng nghe
tiếng nói giáo dân, kịp thời thông tin và hướng dẫn đời sống
đức tin, giới thiệu vẻ đẹp của Tin Mừng. Để đạt mục đích
này, cần gây ư thức và đào tạo các tín hữu về đạo đức truyền
thông.
3.6. Ơn gọi linh mục, tu sĩ tại Việt Nam c̣n phong
phú. Hội Thánh Việt Nam nên nghĩ đến việc gửi các linh mục,
tu sĩ đến các vùng miền c̣n thiếu linh mục, vừa để đền ơn
các thừa sai xưa kia đem Tin Mừng đến Việt Nam, vừa để phục
vụ nhu cầu của Hội Thánh hoàn vũ trong thời đại hiện nay.
KẾT LUẬN
Nh́n lại tiến tŕnh thực hiện Thượng Hội Đồng Giám Mục cấp
giáo phận, chúng tôi rút được những bài học bổ ích cho đời
sống và sứ vụ của Hội Thánh tại Việt Nam.
Đây là lần đầu tiên mọi thành phần Dân Chúa trong các Giáo
phận được thỉnh ư và đóng góp ư kiến, v́ thế đây là dịp quư
báu để mỗi Giáo phận có cái nh́n tổng quan và chính xác về
t́nh h́nh Giáo phận, những ước mong của các thành phần Dân
Chúa, từ đó có thể đưa ra những định hướng thích hợp cho
tương lai. Nhiều Giáo phận có kế hoạch phổ biến bản Tổng kết
của Giáo phận để mọi người biết và cùng nhau thực hiện.
Chúng tôi xem tiến tŕnh Thượng Hội Đồng Giám Mục cấp giáo
phận là cuộc thao luyện thiêng liêng, và “gặp gỡ - lắng nghe
- phân định” là những bước căn bản của linh đạo hiệp hành,
làm nên một cách thế hiện diện mới của Hội Thánh. V́ thế
việc tổng kết tiến tŕnh này không phải là sự kết thúc nhưng
đúng hơn là sự khởi đầu một hành tŕnh mới. “Hiệp hành” phải
là một lối sống cần được kéo dài chứ không chỉ là khẩu hiệu
phong trào hoặc kế hoạch mang tính thời vụ. Hi vọng rằng với
linh đạo hiệp hành, chúng tôi sẽ cùng nhau sống và vun đắp
ngày càng rơ nét hơn h́nh ảnh Hội Thánh hiệp hành, một Hội
Thánh của hiệp thông và tham gia để phục vụ sứ mạng Đức Kitô
trao phó cho chúng ta.
Ngày 10 tháng 08 năm 2022
Văn
pḥng thư kư HĐGMVN
WHĐ (15.8.2022)