Tháng Mân Côi SUY NIỆM LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI Nguồn: WHĐ |
1. Kinh Mân Côi Ngày 10.3.1615 tại Glascow, một vị thừa sai nổi tiếng, đó là cha Ogilive bị hành quyết vì tội rao giảng Phúc Âm. Trong giây phút cuối cùng đứng trên đoạn đầu đài, nhìn thấy hàng ngàn người đến xem, ngài muốn để lại cho họ một kỷ niệm, nên đã lấy cỗ tràng hạt của mình mà ném vào đám đông. Xâu chuỗi rơi trúng một ông hoàng nước Hung Gia Lợi đang trên đường du học và đã có một đời sống không mấy tốt đẹp. Ông hoàng này đã thực sự xúc động khi nhận lấy xâu chuỗi, và cũng nhờ xâu chuỗi, ông đã từ bỏ được nếp sống tội lỗi, trở nên một người đạo đức và yêu mến kinh Mân Côi. Từ câu chuyện trên, chúng ta hãy nhớ lại những mệnh lệnh của Mẹ tại Fatima. Đúng thế, vào năm 1917, Đức Mẹ đã hiện ra tại Fatima với 3 em nhỏ. Và qua 3 em nhỏ Mẹ đã truyền dạy chúng ta: Hãy tôn sùng trái tim Mẹ, hãy cải thiện đời sống và hãy siêng năng lần hạt Mân Côi. Nếu suy nghĩ một chút chúng ta sẽ thấy mệnh lệnh thứ ba bao gồm cả hai mệnh lệnh trên. Bởi vì nhờ việc siêng năng lần hạt, chúng ta biểu lộ được lòng tôn sùng kính mến đối với Mẹ, đồng thời nhờ việc siêng năng lần hạt, chúng ta sẽ tìm thấy những tiêu chuẩn hướng dẫn cho việc cải thiện đời sống để mỗi ngày một trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Chính vì thế, Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã gọi kinh Mân Côi là hơi thở của mọi tâm hồn, là bông hồng thiêng liêng dâng kính Mẹ, là việc đạo đức thích hợp cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc. Và riêng chúng ta, nếu ngay từ bây giờ chúng ta siêng năng lần hạt, thì phần rỗi của chúng ta sẽ được bảo đảm chắc chắn như lời Mẹ đã nói về cậu bé Phanxicô tại Fatima như sau: Phanxicô sẽ được lên thiên đàng nhưng phải lần hạt thật nhiều trước đã. Để kết
thúc phần chia sẻ hôm nay, tôi xin kể lại một mẩu chuyện: Có một người
nhà quê không biết chữ xin vào tu bậc trợ sĩ trong một nhà dòng. Được ít
lâu, ông buồn phiền chán nản vì thấy mình không biết đọc sách để được
hát kinh nhật tụng với mọi người. Ông cũng cố học nhưng vì đã có tuổi,
nên học trước quên sau, chẳng chữ nào ra chữ nào. Sau một thời gian miệt
mài, ông thấy rõ là mình bất lực nên bỏ học và chuyên tâm lần hạt. Ông
thường xuyên phàn nàn với Đức Mẹ: “Vi không biết chữ, nên con chẳng ngợi
khen Mẹ được nhiều hơn. Con không biết đọc sách nguyện như các thầy
khác, thì Mẹ ráng chịu vậy”. Không chịu thua lòng đơn sơ thành thật của
ông, Đức Mẹ đã hiện ra sáng láng đẹp đẽ với một chiếc áo choàng lộng
lẫy, nhưng mới thêu được một nửa bằng những chữ vàng óng ánh: Kính mừng
Maria... Ông đơn sơ hỏi: “Sao Mẹ mặc áo đẹp mà lại thêu dở dang như
vậy?” Mẹ trả lời: “Đây là những kinh Kính Mừng con đọc hằng ngày để dâng
kính Mẹ. Vì con mới đọc được có bằng ấy kinh, nên áo Mẹ còn dang dở như
thế. Vậy con hãy cố đọc nhiều hơn nữa để chóng thêu xong tấm áo cho Mẹ.
Khi nào xong, Mẹ sẽ đến để choàng cho con và dẫn con vào Nước Trời”. Nói
xong Mẹ biến đi, để thầy dòng không biết chữ ở lại ngây ngất với những
kinh Kính Mừng đã đọc. 2. Hiệu quả của Kinh Mân Côi Trong một vài phút ngắn ngủi này tôi xin trình bày về những ơn lành mà chuỗi Mân côi đã đem đến cho nhân loại. Trường hợp thứ nhất đó là vào thế kỷ 13, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp, thế nhưng với chuỗi Mân côi do Đức Mẹ truyền dạy, chỉ trong một thời gian ngắn, thánh Đaminh đã cảm hóa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo Hội. Trường hợp thứ hai đó là vào thế kỷ 16 ảnh hưởng của Tin lành trở nên mạnh mẽ và đe dọa toàn cõi Âu Châu. Nhưng dân thành Luxembourg vẫn nhất quyết trung thành với Giáo Hội. Hôm ấy toàn thể dân phố được mời tới nhà thờ để nghe giảng thuyết. Khi vị mục sư bước lên tòa giảng, thì một người giáo dân xướng kinh và tất cả nhà thờ đều lần hạt to tiếng cho đến lúc vị mục sư phải bước xuống tòa giảng và ra khỏi nhà thờ. Và như thế nhờ kinh Mân côi dân thành Luxembourg giữ vững niềm tin và sự trung thành với Giáo Hội. Trường hợp thứ ba đó là vào thế kỷ 16, quân Thổ Nhĩ Kỳ đe dọa và xâm chiếm Âu Châu, nhưng nhờ kinh Mân côi, đoàn chiến binh Công giáo, tuy ô hợp, nhưng cũng đã dành được chiến thắng tại Lépante. Chính vì thế, để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này, Đức Thánh Cha Piô 5 đã thiết lập lễ Mân côi hôm nay. Trường hợp thứ tư, đó là vào thế kỷ 20. Trước năm 1917, Bồ Đào Nha ở vào một tình trạng suy thoái một cách trầm trọng về phương diện tôn giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè phái đã gây nên những chia rẽ và những cuộc nội chiến. Giáo Hội bị bách hại bởi những kẻ theo nhóm tam điểm. Nhà thờ bị phá hủy, các linh mục và tu sĩ bị bắt bớ, khắp nơi người ta tổ chức những đoàn hội chống lại Giáo Hội. Thế nhưng kể từ năm 1917, năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha đã đi vào một khúc quanh mới của lịch sử. Người ta tổ chức những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mân côi, để xin Mẹ chấm dứt những xáo trộn và ban mọi ơn lành xuống cho đất nước. Và Bồ Đào Nha đã xứng đáng với tước hiệu quê hương của kinh Mân côi. Cũng từ đó những sự đổi mới đã xảy ra. Tinh thần đạo đức thấm nhiễm vào các tổ chức xã hội. Ơn kêu gọi gia tăng, các tạp chí Công giáo phát triển và Giáo Hội bừng sống sau một thế kỷ tàn lụi. Chính các Đức giám mục Bồ Đào Nha, trong một bức thư chung đã xác quyết: Sở dĩ Bồ Đào Nha đã thay đổi tốt đẹp là do những lần Mẹ hiện ra tại Fatima và kinh Mân côi. Nhìn vào hiện tại chúng ta thấy thế giới cũng đang trải qua những biến động và xáo trộn về kinh tế, chính trị và nhất là về tôn giáo. Mặc dù không có những cuộc bách hại gay gắt, mặc dù không có ảnh hưởng của các bè rối, nhưng có một đe dọa khác tệ hại hơn, đó là những học thuyết, những trào lưu tư tưởng, những thể chế chính trị chối bỏ Thiên Chúa, đả phá tôn giáo mỗi ngày một bành trướng, khiến cho một số người không nhỏ xa lìa đức tin. Để nhân loại được hòa bình, để thế giới được an vui, để Giáo Hội được phát triển, chúng ta không có một phương pháp nào hơn là phương pháp mà Mẹ đã truyền dạy, đó là hãy siêng năng chăm chỉ lần hạt Mân côi. 3. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt. Maria, Người nữ Thánh Thể Bài Tin Mừng tường thuật cuộc truyền tin kết thúc bằng hai tiếng "Xin Vâng" của Đức Mẹ. Với hai tiếng "Xin Vâng", cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn thay đổi. Từ nay Mẹ không còn sống cho mình nhưng hoàn toàn sống cho Thiên Chúa. Mẹ kết hiệp chặt chẽ với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu. Và vì thế, Mẹ trở thành gương mẫu của lòng tôn sùng và thực hành bí tích Thánh Thể. Thật vậy, với hai tiếng "Xin Vâng", Mẹ là gương mẫu trong việc đón nhận Thánh Thể. Khi đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa vào lòng, Mẹ hoàn toàn tin tưởng thịt máu của bào thai Mẹ được diễm phúc cưu mang trong lòng chính là Thiên Chúa. Như thế, Mẹ khuyên dạy ta khi đón nhận Mình Thánh Chúa, hãy tin vững vàng ta đã đón nhận Thịt Máu của Chúa Giêsu. Với hai tiếng "Xin Vâng", tâm hồn Mẹ trở nên ngôi nhà chầu đầu tiên được đón tiếp, cất giữ Chúa Giêsu Thánh Thể. Đây chính là ngôi nhà chầu xinh đẹp nhất vì cung lòng thanh khiết của Mẹ là một đền thờ nguy nga lộng lẫy. Hơn nữa việc luôn ghi nhớ và suy niệm những điều thiên thần nói, giúp Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu trong lòng, biến Mẹ thành một người chầu Mình Thánh liên tục. Như thế Mẹ khuyên dạy ta hãy năng chầu Mình Thánh Chúa. Sau khi thưa "Xin Vâng", Mẹ vội và lên đường đi viếng bà thánh Elizabeth. Đây chính là cuộc rước kiệu Thánh Thể đầu tiên. Cuộc rước kiệu thật đơn sơ, không kèn trống, không đông đảo, nhưng đầy sốt sắng, đầy cung kính nên đã đem lại lợi ích phi thường: đem ơn cứu độ đến cho ông thánh Gioan Baotixita còn trong lòng mẹ, làm cho mọi người tràn đầy niềm vui. Như thế Mẹ nhắn nhủ ta kiệu Thánh Thể sốt sắng sẽ đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng. Nhưng cũng với hai tiếng "Xin Vâng", Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu. Từ khi còn trong bào thai cho đến khi sinh ra trong hang đá Bêlem. Từ khi ấu thơ cho đến khi hoạt động công khai. Việc Mẹ tất tả đi tìm Chúa Giêsu trong đền thờ Giêrusalem nói lên sự gắn bó mật thiết. Mẹ coi Chúa Giêsu là lẽ sống. Mẹ không thể sống nếu thiếu vắng Chúa. Với lòng tha thiết tìm kiếm Chúa, Mẹ khuyên dạy ta hãy yêu mến đến khao khát Chúa. Vì Thánh Thể Chúa chính là nguồn sự sống của ta. Với hai tiếng "Xin Vâng", không những Mẹ vâng lời Thiên Chúa hoàn toàn, mà còn dạy mọi người biết vâng lời Chúa. Nên tại tiệc cưới Cana, Mẹ khuyên nhủ gia nhân: “Người bảo gì các con hãy cứ làm theo” (Ga 2,5). Thái độ hoàn toàn vâng phục đã được Chúa thưởng công bằng phép lạ “nước lã hóa thành rượu ngon”. Hôm nay Mẹ cũng nhắc nhủ ta: Nếu Chúa đã dặn dò: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lc 22-19), thì hãy vâng lời Chúa, siêng năng tham dự thánh lễ, chầu MTC, chịu lễ, chắc chắn Chúa sẽ làm phép lạ đổi mới đời các con như biến nước lã thành rượu ngon. Với hai tiếng "Xin Vâng", Mẹ hoàn toàn kết hiệp với Chúa Giêsu, theo Chúa trên đường lên Núi Sọ và đứng dưới chân thánh giá để nên một với Chúa Giêsu trong việc dâng hiến chính bản thân mình, dâng những đau đớn khổ cực làm của lễ đền tội cho nhân loại. Ở đây Mẹ đã sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm tự hiến mình cho nhân loại. Như Chúa Giêsu, tấm lòng tan nát của Mẹ đã trở thành tấm bánh bẻ ra ban cho nhân loại sự sống mới. Như thế Mẹ dạy ta phải biết hiến thân chịu mọi đau đớn, vất vả trong đời sống để nên một với Chúa Giêsu Thánh Thể. Việc kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể để hiến dâng thân mình sẽ đem lại hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân. Và với hai tiếng "Xin Vâng", một lần cuối cùng Mẹ vâng lời Chúa, nhận thánh Gioan làm con. Nhận thánh Gioan là nhận cả nhân loại làm con. Vì thế Mẹ đã sống mầu nhiệm Thánh Thể khi hiệp nhất với tất cả mọi người, nhận tất cả nhân loại vào gia đình mình, đón tiếp mọi người vào đồng bàn trong bữa tiệc Thánh Thể, và trong bữa tiệc Nước Trời. Hôm nay, Mẹ nhắn nhủ ta khi chịu lễ rồi hãy biết yêu thương đoàn kết vì tất cả chúng ta được đồng bàn với Chúa, cùng ăn một bánh, cùng uống một chén với nhau. Và tất cả chúng ta đều là các chi thể trong thân thể của Chúa. Tuy năm Thánh Thể đã kết thúc, nhưng việc yêu mến sùng kính và nhất là việc sống bí tích Thánh Thể vẫn tiếp diễn. Đặc biệt trong tháng Mân Côi, nếu ta yêu mến Đức Mẹ, ta càng phải yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì Mẹ chính là mẫu gương yêu mến Thánh Thể, đến nỗi Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị đã gọi Mẹ là “Người Nữ Thánh Thể”. Nếu chúng ta siêng năng lần hạt Mân Côi, chắc chắn Đức Mẹ sẽ hướng dẫn ta đến yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì tất cả các mầu nhiệm trong kinh Mân Côi đều hướng về Chúa Giêsu. Và mầu nhiệm 5 Sự Sáng đưa ta trực tiếp tới bí tích Thánh Thể. Thật là đẹp khi ta lần hạt trước Thánh Thể. Vì như Đức Mẹ đã khấn cầu cho tiệc cưới Cana được ơn phúc thế nào, hôm nay, trước Thánh Thể, Đức Mẹ cũng khẩn cầu ơn phúc cho chúng ta như vậy. Lạy Mẹ Mân Côi, xin dạy con biết yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên tòa Chúa. Amen. GỢI Ý CHIA SẺ - Lời "Xin Vâng" của Đức Mẹ biểu lộ niềm tin. Bạn có giữ vững được niềm tin trong những lúc gặp thử thách để thưa "Xin Vâng" với Chúa trong đau khổ không?. - Gia nhân đã vâng lời Đức Mẹ “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo” nên đã múc nước lã mà không hiểu gì. Bạn có sẵn sàng vâng lời Chúa làm những việc mà bạn không hiểu? - Khi hiện ra ở Fatima, Đức Mẹ đã mời gọi ta thực hiện 3 điều. Bạn có sẵn sàng "Xin Vâng" để thực hiện không? 4. Kinh Mân Côi – Lời kinh kỳ diệu (Trích trong ‘Từng Bước Một Thôi’ – ĐGM. Vũ Duy Thống) Ngày 16 tháng 10 năm 1978, trong lần xuất hiện đầu tiên trước công chúng sau khi đắc cử Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã ký thác sứ vụ của ngài cho Đức Mẹ Maria và giới thiệu lại Kinh Mân Côi cho toàn thế giới như là “lời kinh diệu kỳ”. Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư “Kinh Mân Côi”, một lần nữa ngài ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mân Côi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm. Vâng, Kinh Mân Côi là kinh phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhưng đâu là nét kỳ diệu của Kinh Mân Côi? a) Kinh Mân Côi hệ tại việc gặp gỡ Đức Maria trong tình mẫu tử. Đành rằng lời kinh nào dâng lên Đức Maria cũng là dâng lên trong tình mẫu tử, như được thể hiện qua truyền thống cầu nguyện Việt Nam, nhất là trong lãnh vực ca nguyện. Cứ thử làm một bảng liệt kê những ca khúc hát dâng Đức Mẹ ắt sẽ rõ. Nhiều lắm. Chỉ những ca khúc bắt đầu bằng chữ “Mẹ ơi” từ nốt bậc năm về nốt bậc một không phân biệt trưởng thứ cũng có thể làm thành một cuốn sưu tập không mỏng. Nhưng vượt lên tất cả, riêng Kinh Mân Côi đã đẩy tình mẫu tử ấy lên một cung bậc diệu kỳ. Phần đầu Kinh Kính Mừng dựa trên Phúc Âm là lời chào của sứ thần Gabriel phối hợp với lời mừng của bà Êlisabet làm thành lời xưng tụng Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng từ trời cao xuống thế làm người. Phần sau Kinh Kính Mừng là lời xin ơn trợ giúp qua đó tín hữu xưng hô Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Và tổng hợp cả hai phần ngắn ngủi đọc lên chỉ trong mười lăm giây đồng hồ là cả một lời kinh kỳ diệu nối kết tâm tình con thảo vào với mầu nhiệm Đức Maria trên đỉnh vị thế là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ con người; Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ của mỗi người chúng ta. Nếu “nải chuối buồng cau, đường mía lau xôi nếp một” là ca dao tình mẹ ngọt ngào trong văn học dân gian Việt Nam, thì Kinh Kính Mừng quả là lời kinh tuyệt diệu ngọt ngào tình mẫu tử thiêng liêng giúp ta gặp được Đức Maria cao xa là Mẹ Chúa Trời nhưng vẫn cứ luôn gần gũi với người dương thế cho dẫu phận người hôm nay không đẹp đẽ gì, vì xét cho cùng chỉ là kẻ có tội “khi nay và trong giờ lâm tử”. Chính vì thế Kinh Kính Mừng đã trở thành lời nguyện tắt mọi lúc mọi nơi. b) Kinh Mân Côi: Qua Mẹ để tới Chúa Kitô. Thật vậy, hình thức lời kinh trực tiếp dâng lên Đức Mẹ, nhưng nội dung chiêm niệm lại là mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu trải ra theo mười lăm ngắm truyền thống Vui Thương Mừng và năm mầu nhiệm sự Sáng do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề nghị. Chả thế mà Đức Phaolô VI trong Tông huấn Marialis Cultus đã gọi Kinh Mân Côi là “cuốn Phúc Âm rút gọn”, rất gọn không còn cách nào gọn hơn được nữa, để có thể ghi vào trong bộ nhớ sống, sẵn sàng bung ra làm việc trên màn hình máy tính cuộc đời. Từ việc Chúa Giêsu sinh ra trong Máng cỏ đến việc Người biến hình trên Núi Tabor, rồi qua việc Người như bị Chúa Cha ruồng bỏ, để hiện hình sáng tỏ trong mùa Phục Sinh. Tất nhiên người ta có thể đến với Chúa Giêsu bằng nhiều cách khác nhau như đọc Phúc Âm, rước Thánh Thể, thương giúp người…, nhưng đến với Chúa Giêsu bằng cung cách của Kinh Mân Côi thì quả là độc đáo; không phải là bí tích nhưng hiệu quả dọn đường cho bí tích; không phải là Phụng Vụ nhưng tâm tình rất cận kề Phụng Vụ; và nhất là được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là “lưu giữ và suy niệm trong lòng”, tức là “khẩu tụng” đều đều lời kinh Đức Mẹ và “tâm suy” dài dài cuộc đời Đấng Cứu Thế. “Ad Jesum per Mariam” chính là đây, bằng phương thức tụng niệm tức là vừa đọc vừa suy niệm của Kinh Mân Côi. Đó là kết cấu tinh thần. Ngay trong kết cấu vật thể của tràng hạt Mân Côi, người ta cũng thấy rõ dụng ý này: năm mươi Kinh Kính Mừng kết thành tràng hạt, nhưng cả tràng hạt chỉ được kết thúc bằng tượng Chúa Giêsu chịu chết treo trên Thánh Giá. Thật diệu kỳ được Đức Mẹ dẫn tới Chúa Giêsu. c) Kinh Mân Côi là phương thế giúp người người vững bước trên đường nên thánh Khi nêu lên hiệu quả thánh hóa của Kinh Mân Côi trong nhịp sống Giáo Hội, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không quên gợi lại những chứng tích lịch sử, những khuôn mặt tiền nhiệm, những lời kêu gọi của Đức Mẹ trong những lần hiện ra tại Lộ Đức và Fatima, và nhất là chính kinh nghiệm bản thân gắn bó với chuỗi Mân Côi, ngày xưa còn bé cũng như trong sứ vụ hiện nay và cách riêng qua biến cố ngài bị ám sát hụt ngày 13 tháng 05 năm 1981 kỷ niệm dịp Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên tại Fatima. Kinh Mân Côi, như kiểu nói bình dân, chính là vũ khí giúp ta chống lại ba thù “ma quỷ, thế gian, xác thịt”, và là sinh tố tăng cường ba việc “nên thánh, mến Chúa, yêu người”. Nếu nhân đức là việc tốt lành được tập tành lặp đi lặp lại thành thói quen phản xạ tự nhiên, thì Kinh Mân Côi chính là một bửu bối không thể thiếu được cho người tu thân luyện đức theo gương Đức Mẹ và theo chân Chúa Giêsu từ Máng Cỏ ấp ủ qua Thập Giá trui rèn tới Nhà Tạm chiêm ngưỡng. Mỗi một mầu nhiệm xướng lên là một nhân đức khơi gợi để theo lời kinh nhả nhẹ và dưới tác động của ơn thánh, lòng người được bớt bất xứng hơn, tạo điều kiện thuận lợi dần dần cho việc nên thánh. Những
nhà thông thái có sách vở chữ nghĩa, những nhà cai trị có sức mạnh quyền
hành, những nhà tu trì có bầu khí ổn định làm phương tiện, còn hầu hết
chúng ta là những nhà “tu hành” nghĩa là tu thân bằng việc hành đạo như
người giáo dân, hay đi tu mà vẫn phải đi tới đi lui đi xuôi đi ngược ở
giữa cuộc đời như các giáo sĩ triều, thì Kinh Mân Côi chính là một hành
trang và phương tiện “bỏ túi” (hoặc đeo tay đeo cổ) gọn nhẹ giúp thánh
hóa bản thân, gia đình và xã hội. Theo định nghĩa này, Kinh Mân Côi
không khác gì điện thoại di động hòa đời ta vào mạng sự sống thiêng
liêng. 5. Lễ Đức Mẹ Mân Côi Nói về Mẹ Maria qua tràng chuỗi Mân Côi, nhân loại đang sống trong lòng tin sẽ không bao giờ có thể phủ nhận được con đường Mẹ dậy mọi người đi với ba mầu nhiệm: Nhập thể, Đau khổ và Phục sinh của Con duy nhất của Mẹ là Chúa Giêsu Kitô luôn rõ nét, sáng ngời giữa mọi biến cố của lịch sử cứu độ. Mẹ Maria như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết: “Vào bình minh của ngàn năm mới, chúng ta vui mừng nhận thấy nổi bật lên 'chiều kích Thánh Mẫu' của Hội Thánh, ấp ủ trong mình nội dung sâu thẩm nhất của việc canh tân do công đồng đề xướng”. Con cái của Mẹ theo sau Mẹ đi từng chặng đường của Con Mẹ đã đi qua. Con đường ấy không đâu xa, đó là con đường: Vui, Thương, Mừng mà nhân loại muốn đi vào nước trời không thể nào không bước qua những chặng đường ấy. Mẹ Maria trong lịch sử cứu độ Maria được Thiên chúa tuyển chọn để làm Mẹ Đức Giêsu Kitô và làm Mẹ nhân loại. Lời Xin Vâng của Mẹ đã làm đảo lộn cả lịch sử nhân loại, mặc cho nhân loại một ý nghĩa mầu nhiệm, sâu xa. Nếu không có lời Xin Vâng của Mẹ, nhân loại đã khác hẳn, nhân loại chẳng bao giờ có ngày hôm nay. Với tiếng Xin Vâng, Mẹ Maria đã tận hiến và chấp nhận ý định của Thiên Chúa, hiến toàn thân mình cho Thiên Chúa, để cùng với Ngài thực hiện chương trình cứu độ nhân loại. Mẹ Maria đã nắm một vai trò thật đặc biệt và quan trọng trong lịch sử cứu rỗi. Sở dĩ Mẹ Maria được Thiên Chúa trao cho một vai trò lớn lao, quan trọng như thế là vì Maria được tràn đầy ân sủng, Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ. Thiên Chúa ở cùng, ở với Mẹ là hạnh phúc lớn nhất, khiến Mẹ luôn đầy phước lộc chứa chan, nhờ đó Mẹ chiếu tỏa ánh sáng và ân sủng cho mọi người. Maria là một người Mẹ, người Mẹ hoàn toàn đúng nghĩa của nó, một người Mẹ đầy yêu thương, vì Mẹ có đầy hồng phúc. Mẹ Maria là một người trong nhân loại, là một người nữ đúng nghĩa nhất, nhưng Maria lại là một người nữ đặc biệt vì Maria làm đẹp lòng Thiên Chúa. Maria đặc biệt hơn nữa vì tâm hồn đơn sơ, thánh thiện, tinh trong, sáng ngời của Mẹ. Maria hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu Mẹ Thiên Chúa vì Mẹ đã chỉ cho nhân loại phải bước theo những chặng đường con của Mẹ là Chúa Giêsu đã bước qua. “Các con đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33) Chúa Giêsu đã chết, Ngài đã sống lại, lên trời, ban Thánh Thần cho các môn đệ và trở thành niềm cậy trông vững bền cho mọi người, Chúa hứa với các môn đệ và nhân loại: “Sẽ ở cùng các con mọi ngày cho tới tận thế”(Ga 14,18). Chúa là con của Mẹ Maria, nên Chúa phục sinh ở với nhân loại mãi mãi cho tới ngày cùng tận trời đất, chắc chắn Mẹ cũng ở với nhân loại cho tới tận thế, vì lúc nào Mẹ cũng mang Chúa trong lòng và giới thiệu Chúa cho nhân loại. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Nếu có sự chiến thắng thì Mẹ Maria là người chiến thắng”. Mẹ đã hiện ra tại nhiều nơi như Lộ Đức, Fatima, Labouret, Nam Tư , La Vang và nhiều nơi khác trên khắp thế giới. Nơi nào Mẹ cũng khuyên nhủ: “phải ăn năn sám hối, và năng lần chuỗi Mân Côi”. Mẹ đã luôn giữ lời hứa và Mẹ luôn muốn con của Mẹ tất cả được thừa hưởng nước trời . Mẹ chiến thắng ma quỉ, sức mạnh của sự dữ. Mẹ chiến thắng tà thần. “Trái tim hiến tế của Mẹ đã thắng tội lỗi và những tối tăm của quyền lực ma quỉ, sự dữ…” Lễ Mân Côi nói gì cho nhân loại Lễ Mân Côi làm cho dân Chúa hồi tưởng lại thời đạo binh thánh giá chiến thắng quân Phổ ở Lê-pan vào năm 1571 nhờ sự can thiệp của Đức Trinh Nữ Maria. Tuy nhiên, đó chỉ là lý do phụ. Điều cốt thiết của nhân loại là hiệp ý với Mẹ Maria, Nữ Vương An Bình, cầu nguyện cho mọi người nhìn nhận ý Thiên Chúa và tuân theo ý Người. Mẹ Maria đã nhiều lần hiện ra cho nhiều người ở nhiều nơi như Lộ Đức, Mẹ đã hiện ra với thánh nữ Bernadette và tự giới thiệu ngài là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội. Tại Fatima, Mẹ đã hiện ra với ba trẻ là Lucia, Phanxicô và Giacintha. Trong các lần hiện ra Mẹ đều khuyên các trẻ và nhân loại phải ăn năn sám hối, lần chuỗi và sống trung thành với Chúa. Chắc chắn, mọi người ở muôn thời đều muốn được hạnh phúc và vui vẻ để sống. Nhưng thái độ của ta đối với Thiên Chúa và tha nhân như thế nào? Ta đã sám hối và cầu nguyện, lần chuỗi theo ý Mẹ đủ chưa? Nếu chưa, ta cần thay đổi lối sống, lần chuỗi siêng năng hơn để cùng với Mẹ đi vào các biến cố, các chặng đường của Chúa: Nhập Thể, Khổ Nạn và Phục Sinh. Ta đã sống bác ái, yêu thương đủ chưa? Nếu chưa, ta cần sống tốt hơn và cố gắng đi vào định luật của tình yêu: “Chúng con hãy yêu thương nhau như Ta đã yêu thương các con”. Lễ Mân Côi, một dịp để ta đi vào chương trình cứu rỗi của Chúa Giêsu và là một dịp để chúng ta cố gắng thay đổi con người mới, kết hiệp với Mẹ và sống theo lời khuyên của Mẹ: Sám hối, Cầu nguyện và Lần chuỗi. Chuỗi Mân Côi là phương thế dễ dàng và hữu hiệu nhất để giúp ta sống trung thành với Đạo tình thương của Chúa Giêsu. “Lạy Chúa, …… xin đổ ơn thánh đầy lòng chúng con, để nhờ công ơn Con Chúa chịu khổ hình Thập giá, và nhờ Thánh Mẫu Maria chuyển cầu, Chúa cũng cho chúng con được sống lại hiển vinh” (Lời Nguyện Nhập Lễ, Lễ Đức Mẹ Mân Côi). 6. Suy niệm của ĐGM. Bùi Tuần. Cầu nguyện bằng chuỗi mân côi Trong lịch phụng vụ, tháng 10 có tên là tháng Mân côi. Suốt tháng này, Hội Thánh khắp nơi hướng về Đức Mẹ một cách đặc biệt. Lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ trong thời gian này mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi. Mân côi chính là hoa hồng. Như thể, bằng chuỗi Mân côi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp, dâng lên Mẹ hiền. Lịch sử chuỗi Mân côi là một hành trình dài. Hành trình đó mang nhiều gợi ý. Những gợi ý này có thể giúp chúng ta cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi một cách sốt sắng, vừa hợp với truyền thống, vừa sát với thời sự. Chuỗi Mân côi đốt lên lửa mến. Lịch sử cho thấy kinh Mân côi được thành hình do động lực sùng kính Đức Mẹ. Người được nhắc tới nhiều trong lịch sử kinh Mân côi là thánh Đaminh, đấng sáng lập Dòng Giảng thuyết. Ngài qua đời năm 1221. Một số tài liệu quả quyết rằng chính Đức Mẹ đã trao cho thánh Đaminh chuỗi Mân côi. Xung quanh thánh Đaminh còn một số tu sĩ nhiệt thành, như tu sĩ Dominique dòng Chartreux thành Trèves, tu sĩ Alain de la Roche dòng Đaminh thành Lille. Các vị này đã có những đóng góp quan trọng. Tất cả các ngài đều là những tông đồ của Đức Mẹ. Với lòng xác tín, hăng hái, nhiệt thành, các ngài rao giảng, truyền bá kinh Mân côi. Trước hết là trong các cơ sở Dòng, sau là tại các giáo xứ của nhiều giáo phận Âu Châu. Phong trào đọc kinh Mân côi sau đó được tổ chức thành các hiệp hội. Các người trong hiệp hội liên đới với nhau bằng chia sẻ đời sống thiêng liêng. Nhận thấy phong trào kinh Mân côi đem lại nhiều kết quả lớn lao và mau lẹ cho đời sống đức tin, Toà Thánh đã công nhận, khuyến khích và ban nhiều ân xá. Năm 1475, tại Cologne, chính hoàng đế nước Đức là Fredéric III, hoàng hậu và hoàng tử đã xin ghi tên vào hội kinh Mân côi. Nhờ vậy, chuỗi Mân côi có thêm uy tín. Uy tín đó không phải là lý do để phong trào kinh Mân côi lan rộng. Lý do lan rộng chính là tính cách Kinh Thánh và bình dân của chuỗi Mân côi. Các lời kinh của chuỗi Mân côi đều được đúc kết từ Kinh Thánh. Các mầu nhiệm suy gẫm trong chuỗi Mân côi cũng được rút ra từ Kinh Thánh. Số 150 kinh Kính Mừng cũng là để nhớ lại số 150 thánh vịnh của Cựu Ước. Tuy nền tảng là Kinh Thánh, nhưng chuỗi Mân côi được sắp xếp một cách bình dị, dễ đọc, dễ hiểu, hợp với bình dân. Miệng đọc kinh, lòng suy gẫm, tay lần chuỗi hạt, đó là một hình thức đạo đức bình dân thấy có ở nhiều tôn giáo truyền thống như Phật giáo, Hồi giáo. Với hình thức đạo đức này, kinh Mân côi đã đốt lên lửa mến trong các tâm hồn. Nhiều tâm hồn trước kia nguội lạnh đã được ơn trở về. Chuỗi Mân côi thắp sáng niềm hy vọng cứu độ. Lịch sử cho thấy: Khi khấn cầu ơn nọ ơn kia, nhiều người đã dựa vào chuỗi Mân côi như một nguồn để tìm sức mạnh cậy trông. Năm 1571, trước cơn đe doạ đạo Chúa bị tàn phá, Đức Thánh Cha Piô V, đã truyền cho Hội Thánh cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi, với hy vọng Chúa sẽ cứu. Khấn cầu đó đã được Chúa chấp nhận. Chiến thắng ở vịnh Lepante ngày 7 tháng 10 năm 1571 đã là cơ sở để Đức Thánh Cha thiết lập lễ Đức Mẹ Mân côi. Hằng năm cứ đến ngày 7 tháng 10, Hội Thánh đề cao chuỗi Mân côi như một nguồn hy vọng. Năm 1629, trước cơn dịch tả nguy hiểm lan rộng trên nước Ý, tu sĩ Timoteo Ricci đã lập ra chuỗi Mân côi liên tiếp. Thầy tính rằng: Mỗi năm có 8.760 giờ. Căn cứ vào đó, thầy làm ra 8.760 tấm vé. Mỗi vé ghi tháng, ngày, giờ. Rồi cho rút thăm. Ai được vé nào thì cam kết đọc chuỗi Mân côi tháng ngày giờ đó. Mục đích có ý xin ơn chết lành cho những người hấp hối, xin ơn trở lại cho những người tội lỗi, xin ơn bình an cho các dân tộc. Từ sáng kiến đó, phong trào kinh Mân côi liên tiếp được thành lập và lan rộng. Năm 1657, Đức Giáo Hoàng Alexandre VII chấp nhận phong trào đạo đức này, và ban cho nhiều ân xá.
Mỗi tháng, bà Pauline phổ biến cho các nhóm một bản suy gẫm Lời Chúa, hướng về truyền giáo. Đầu thế kỷ XX, trước tình hình suy giảm đức tin tại Pháp, cha Joseph Eyquem lập ra những hội Mân côi. Sinh hoạt của những người theo hội này cũng là đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Ngoài ra, họ họp nhau mỗi tháng một lần. Cuộc họp không tổ chức ở nhà thờ, nhưng ở nhà tư, lúc ở nhà này, khi ở nhà khác. Cuộc họp gồm đủ mọi thành phần. Những tín hữu bình thường, những người ly dị, những người rối vợ rối chồng, những người xa tránh các bí tích. Họ cầu nguyện, trao đổi, chia sẻ và giúp đỡ nhau vượt qua các thử thách. Nói chung, khi gặp những khó khăn nguy hiểm, cả trong đạo lẫn ngoài đời, người ta đã chạy lại với Đức Mẹ. Họ khẩn cầu Mẹ bằng chuỗi Mân côi. Và thực sự chuỗi Mân côi đã đem lại cho các tâm hồn những hy vọng lành thánh. Chuỗi Mân côi mở kho tàng trái Tim Đức Mẹ. Trước đây, chuỗi Mân côi được truyền bá bởi các thánh, và Hội Thánh. Nay, chính Đức Mẹ lên tiếng. Tại Fatima, khi hiện ra với ba trẻ, Phanxicô, Giacinta và Lucia, Đức Mẹ đã mang chuỗi Mân côi. Đức Mẹ cũng đã khuyên người ta hãy năng cầu nguyện kinh Mân côi. Tại Fatima, Lộ Đức và những nơi hành hương, chuỗi Mân côi ví như những chuỗi hoa hồng của các trái tim không ngừng dâng lên Đức Mẹ. Còn Đức Mẹ, thì luôn mưa những hoa hồng thiêng xuống cho các người chân thành cầu khấn. Hoa hồng nói đây là những ơn phúc phần hồn phần xác. Ơn phúc đủ loại, nhất là ơn sám hối, ơn trở về với Chúa, ơn đổi mới cuộc đời, ơn đi sâu vào Phúc Âm, ơn biết đón nhận thánh ý Chúa để trở thành cộng tác viên đắc lực của Đức Mẹ đồng công cứu chuộc. Các ơn Đức Mẹ ban qua chuỗi Mân côi phát xuất từ trái tim Đức Mẹ. Trái tim ấy đầy tình thương và cũng đã chịu nhiều đau đớn, để cùng với Chúa Giêsu cứu chuộc nhân loại bằng hy sinh trên thánh giá. Vì thế có thể nói, các ơn đó đến từ trên, và chảy vào trong nội tâm mỗi người. Với nhận thức đó, chúng ta hiểu ý nghĩa lời Đức Mẹ nói với Bernadette ở Lộ Đức: “Mẹ không hứa cho con hạnh phúc đời này, nhưng hạnh phúc đời sau”. Tuy nhiên, ngay ở đời này, những ai lần chuỗi Mân côi, cũng sẽ được Đức Mẹ thương ban ơn, cách này hay cách khác. Hiện nay, cuộc sống đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải. Kinh Mân côi sẽ giúp chúng ta tìm được lối thoát. Lối thoát sẽ từ trên trái tim Đức Mẹ mà xuống và từ trong nội tâm ta mà ra. Nội tâm ta cầu nguyện sám hối. Trái tim Đức Mẹ sẽ làm chứng một cách sống động lời thiên thần đã nói với Đức Mẹ xưa: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). |