Tháng Mân Côi


SUY NIỆM CHUỖI MÂN CÔI THEO KINH THÁNH

Nguồn: Giuse - Hoàng Trung Chính

Phần II – Các Mầu Nhiệm

NĂM SỰ VUI

Thứ nhất thì ngắm: “Thiên Thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai, ta hãy xin cho được ở khiêm nhường”

-  Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến thành miền Galilê, gọi là Nadaret, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavit. Trinh nữ ấy tên là Maria.
-  Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.”
-  Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có ý nghĩa gì.
-  Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavit, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-Cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”
-  Bà Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”
-  Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa … …Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”
-  Bấy giờ bà Maria nói: “ Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”
-  Rồi sứ thần từ biệt ra đi. (Lc 1, 26-38)

Thứ hai thì ngắm: “Đức Bà đi viếng Bà Thánh I-SA-VE, ta hãy xin cho được lòng yêu người”

-  Hồi ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa.
-  Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Êlisabet.
-  Bà Êlisabet vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”
-  Bấy giờ bà Maria nói: “ Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời  nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng. Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ap-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời.”
-  Bà Maria ở lại với bà Êlisabet độ ba tháng, rồi trở về nhà. (Lc 1, 39-56)

Thứ ba thì ngắm: “Đức Bà sinh Đức Chúa Giêsu trong hang đá, ta hãy xin cho được lòng khó khăn”

-  Thời ấy, hoàng đế Au-gut-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi.
-  Bởi thế, ông Giu-se từ thành Na-da-ret, miền Ga-li-lê lên thành vua Đavit tức là Bêlem, miền Giuđê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đa-vít.
-  Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai.
-  Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa.
-  Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.
-  Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật.
-  Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng.
-  Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ, này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavit, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ theo dấu này mà nhận ra Người: Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.”
-  Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”
-  Khi các sứ thần từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau: “Nào chúng ta sang Bêlem, để xem sự việc xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết.”
-  Họ liền hối hả ra đi.
-  Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.
-  Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này.
-  Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.
-  Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa ca tụng tôn vinh Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ. (Lc 2, 1-20)

Thứ tư thì ngắm: “Đức Bà dâng Đức Chúa Giêsu vào Đền Thánh, ta hãy xin cho được vâng lời chịu lụy”

-  Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Maria và ông Giuse đem con  lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của Thánh, dành cho Chúa”, và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.
-  Hồi ấy ở Giêrusalem, có một người tên là Simêon. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên ông.
-  Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức  Chúa.
-  Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ.
-  Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa. (Lc 2, 22-28)
-  Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Simêon vừa nói về Người.
-  Ông Simêon chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Maria, mẹ của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt Cháu Bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng, và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà” (Lc 2, 33-35)
-  Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Nadaret, miền Galilê. (Lc 2, 39)

Thứ năm thì ngắm: “Đức Bà tìm được Đức Chúa Giêsu trong Đền Thánh, ta hãy xin cho được giữ nghĩa cùng Chúa luôn”

-  Hằng năm, cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua.
-  Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ.
-  Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết.
-  Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm giữa đám bà con và người quen thuộc.
-  Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm.
-  Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu.
-  Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con !”
-  Người đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”
-  Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói.
-  Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-ret và hằng vâng phục các ngài.
-  Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. (Lc 2, 41-52)

*********

NĂM SỰ SÁNG

Thứ nhất thì ngắm: “Đức Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Jordan, ta hãy xin cho được sống đẹp lòng Đức Chúa Trời”

-  Bấy giờ, Đức Giêsu từ miền Galilê đến sông Jordan, gặp ông Gio-an để xin ông làm phép rửa cho mình.
-  Nhưng ông một mực can Người và nói: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!”
-  Nhưng Đức Giêsu trả lời: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ đức công chính.”
-  Bấy giờ ông Gio-an mới chiều theo ý Người.
-  Khi Đức Giêsu chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra.
-  Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người.
-  Và có tiếng từ trời phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” (Mt 3, 13-17)

Thứ hai thì ngắm: “Đức Chúa Giêsu làm phép lạ hóa nước thành rượu tại Cana, ta hãy xin cho được vững tin vào quyền năng của Đức Chúa Trời”

-  Có một tiệc cưới tại Ca-na miền Galilê.
-  Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giêsu. Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự.
-  Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: “Họ hết rượu rồi.”
-  Đức Giêsu đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến.”
-  Thân mẫu Người nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.”
- Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước.
-  Đức Giêsu bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi!”
-  Và họ đổ đầy tới miệng.
-  Rồi Người nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc.”
-  Họ liền đem cho ông.
-  Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới gọi tân lang lại và nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đẵi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ.”
-  Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người.
-  Các môn đệ đã tin vào Người. (Ga 2, 1-11)

Thứ ba thì ngắm: “Đức Chúa Giêsu rao giảng Nước Trời và ơn thống hối, ta hãy xin cho được ơn cải sửa tâm hồn

-  “Nước Trời ví như chuyện người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Khi mọi người đang ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng vào giữa lúa, rồi đi mất. Khi lúa mọc lên và trổ bông, thì cỏ lùng cũng xuất hiện … … Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi.” (Mt 13, 24-30)
-  “Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. Tuy nó là loại hạt nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhất, nó trở thành cây, đến nổi chim trời tới làm tổ trên cành.” (Mt 13, 31-32)
-  “Nước Trời cũng giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men.” (Mt 13, 33)
-  “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.” (Mt 13, 44)
-  “Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.” (Mt 13, 45-46)
-  “Nước Trời lại còn giống như chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài.” (Mt 13, 47-50)
-  “Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.” (Mt 6, 31-33)
-  “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa! Lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt 7, 21)
-  “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6, 31)
-  “Anh em phải có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.” (Lc 6, 36-38)
-  “Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. … … Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hỏa ngục thiêu đốt” (Mt 5, 20-22)
-  “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? … … cũng như mười tám người kia bị tháp Sô-li-ac đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.” (Lc 13, 1-5)
-  “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.” (Mt 7, 13-14)

Thứ tư thì ngắm: “Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor, ta hãy xin cho được luôn lắng nghe lời Người”

-  Đức Giêsu lên núi cầu nguyện đem theo các ông Phêrô, Gioan, và Giacôbê.
-  Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bổng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa.
-  Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a.
-  Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem.
-  Còn ông Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu, và hai nhân vật đứng bên Người.
-  Đang lúc hai vị này từ biệt Đức Giêsu, ông Phêrô thưa với Người rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.” Ông không biết mình đang nói gì.
-  Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông.
-  Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ.
-  Và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” (Lc 9, 28-35)
-  Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất.
-  Bấy giờ Đức Giêsu lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Trỗi dậy đi, đừng sợ!”
-  Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn lại một mình Đức Giêsu mà thôi.
-  Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông rằng: “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy.” (Mt 17, 6-9)

Thứ năm thì ngắm: “Đức Chúa Giêsu lập phép Thánh Thể, ta hãy xin cho được siêng năng rước Mình Máu Thánh Người”

-  “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6, 51)
-  “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình.”
-  “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống.”
-  “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy.”
-  “Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy.”
-  “Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 53-58)
-  Khi giờ đã đến, Đức Giêsu vào bàn cùng với các Tông Đồ. (Lc 22, 14)
-  Rồi Người nhận lấy chén, dâng lời tạ ơn và nói: “Anh em hãy cầm lấy mà chia nhau.” (Lc 22, 17)
-  Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy.” (Lc 22, 19)
-  Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em.” (Lc 22, 20)

*********

NĂM SỰ THƯƠNG

Thứ nhất thì ngắm: “Đức Chúa Giêsu lo buồn đổ mồ hôi máu, ta hãy xin cho được ăn năn tội nên”

-  Đức Giêsu và các môn đệ đến một thửa đất gọi là Ghết-sê-ma-ni.
-  Người nói với các ông: “Anh em ngồi lại đây, trong khi Thầy cầu nguyện.”
-  Rồi Người đem theo các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo. Người bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến. (Mc 14, 32-33)
-  Bấy giờ Người nói với các ông: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy.”
-  Người đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.” (Mt 26, 38-39)
-  Bấy giờ có Thiên Sứ tự trời hiện đến tăng sức cho Người.
-  Lòng xao xuyến bồi hồi, nên Người càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất. (Lc 22, 43-44)
-  Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ đang ngủ, liền nói với ông Phêrô: “Simôn, anh ngủ à? Anh không thức nổi một giờ sao? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái nhưng thể xác lại yếu đuối.” (Mc 14, 37-38)
-  Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai và nói: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha.” (Mt 26, 42)
-  Rồi Người lại đến, thấy các môn đệ vẫn đang ngủ, vì mắt họ nặng trĩu. Người để mặc các ông mà đi cầu nguyện lần thứ ba, nói lại cũng một lời đó. (Mt 26, 43-44)
-  Bấy giờ Người đến chổ các môn đệ và nói với các ông: “Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Này, đến giờ Con Người bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi. Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới !” (Mt 26, 45-46)

Thứ hai thì ngắm: “Đức Chúa Giêsu chịu đánh đòn, ta hãy xin cho được hãm mình chịu khó bằng lòng”

-  Ngay lúc đó, khi Người còn đang nói, thì Giuđa, một trong Nhóm Mười Hai, xuất hiện.
-  Cùng đi với hắn, có một đám đông mang gươm giáo gậy gộc. Họ được các thượng tế, kinh sư, kỳ mục sai đến.
-  Kẻ nộp Đức Giêsu đã cho họ một ám hiệu, hắn dặn rằng: “Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận.”
-  Vừa tới, Giuđa tiến lại gần Người và nói: “Thưa Thầy!”, rồi hôn Người.
-  Họ liền tra tay bắt Người. (Mc 14, 43-46)
-  Họ điệu Đức Giêsu đến vị thượng tế. Các thượng tế, kỳ mục và kinh sư tề tựu đông đủ. (Mc 14, 53)
-  Bấy giờ các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng tìm lời chứng buộc tội Đức Giêsu để lên án tử hình, nhưng họ tìm không ra, vì tuy có nhiều kẻ đưa chứng gian tố cáo Người, nhưng các chứng ấy lại không ăn khớp với nhau. (Mc 14, 55-56)
-  Bấy giờ vị thượng tế đứng lên hỏi Đức Giêsu: “Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?”
-  Nhưng Đức Giêsu vẫn làm thinh.
-  Vị thượng tế nói với Người: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: Ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không?”
-  Đức Giêsu trả lời: “Chính ngài vừa nói. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến.”
-  Bấy giờ vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói: “Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Đấy quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ sao?”
-  Họ liền đáp: “Hắn đáng chết!” (Mt 26, 62-66)
-  Thế là một số bắt đầu khạc nhổ vào Người, bịt mặt Người lại, vừa đánh đấm Người vừa nói: “Hãy nói tiên tri đi!” Và đám thuộc hạ tát Người túi bụi. (Mc 14, 65)
-  Vừa tảng sáng, các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng.
-  Sau đó, họ trói Đức Giêsu lại và giải đi nộp cho ông Philatô.
-  Ông Philatô hỏi Người: “Ông là vua dân Do Thái sao?”
-  Người trả lời: “Đúng như ngài nói đó.”
-  Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội, nên ông Philatô lại hỏi Người: “Ông không trả lời gì sao? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội!”
-  Nhưng Đức Giêsu không trả lời gì nữa, khiến ông Philatô phải ngạc nhiên. (Mc 15, 1-5)
-  Vào mỗi dịp lễ lớn, tổng trấn có lệ phóng thích cho dân chúng một người tù, tuỳ ý họ muốn. Mà khi ấy có một người tù khét tiếng, tên là Baraba.
-  Vậy khi đám đông đã tụ họp lại, thì tổng trấn Philatô nói với họ: “Các người muốn ta phóng thích ai cho các người đây? Baraba hay Giêsu, cũng gọi là Kitô?” (Mt 27, 15- 17)
-  Nhưng các thượng tế và kỳ mục lại xúi đám đông đòi tha tên Baraba mà giết Đức Giêsu.
-  Tổng trấn hỏi họ: “Trong hai người này, các người muốn ta tha ai cho các người?”
-  Họ Thưa: “Baraba!”
-  Tổng trấn Philatô nói tiếp: “Thế còn ông Giêsu, cũng gọi là Kitô, ta sẽ làm gì đây?”
-  Mọi người đồng thanh: “Đóng đinh nó vào thập giá!”
-  Tổng trấn lại nói: “Thế ông ấy đã làm điều gì gian ác?”
-  Họ càng la to: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Mt 27, 20-23)
-  Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Philatô phóng thích tên Baraba, truyền đánh đòn Đức Giêsu, rồi trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá. (Mc 15, 15)

Thứ ba thì ngắm: “Đức Chúa Giêsu chịu đội mão gai, ta hãy xin cho được chịu mọi sự sỉ nhục bằng lòng”

-  Bấy giờ lính của tổng trấn đem Đức Giêsu vào trong dinh, và tập trung cả cơ đội quanh Người
-  Chúng lột áo Người ra, khoác cho Người một tấm áo choàng đỏ, rồi kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người, và trao vào tay mặt Người một cây sậy.
-  Chúng quỳ gối trước mặt Người mà nhạo rằng: “Vạn tuế Đức Vua dân Do Thái!”
-  Rồi chúng khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy mà đập vào đầu Người.
-  Chế giễu chán, chúng lột áo choàng ra, và cho Người mặc áo lại như trước, rồi điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. (Mt 27, 27- 31)

Thứ tư thì ngắm: “Đức Chúa Giêsu vác cây Thánh Giá, ta hãy xin cho được vác Thánh Giá theo chân Chúa”

-  Vậy họ điệu Đức Giêsu đi.
-  Chính Người vác lấy thập giá đi ra, đến nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Hipri là Gôn-gô-tha. (Ga 19, 16-17)
-  Khi điệu Đức Giêsu đi, họ bắt một người từ miền quê lên, tên là Simôn, gốc Ky-rê-nê, đặt thập giá lên vai cho ông vác theo sau Đức Giêsu.
-  Dân chúng đi theo Người đông lắm, trong số đó có nhiều phụ nữ vừa đấm ngực vừa than khóc Người.
-  Đức Giêsu quay lại phía các bà mà nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu.”
-  “Vì này đây sẽ tới những ngày người ta phải nói: Phúc thay đàn bà hiếm hoi, người không sinh đẻ, kẻ không cho bú mớm!”
-  “Bấy giờ người ta sẽ bắt đầu nói với núi non: Đổ xuống chúng tôi đi!, và với gò nổng: Phủ lấp chúng tôi đi! vì cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế, thì cây khô héo sẽ ra sao?”
-  Có hai tên gian phi cũng bị điệu đi hành quyết cùng với Người. (Lc 26, 32)

Thứ năm thì ngắm: “Đức Chúa Giêsu chịu chết trên cây Thánh Giá, ta hãy xin cho được đóng đinh tính xác thịt vào Thánh Giá Chúa”

-  Khi đến nơi gọi là Gôn-gô-tha, nghĩa là Đồi Sọ, chúng cho Người uống rượu pha mật đắng, nhưng Người chỉ nếm một chút mà không chịu uống. (Mt 27, 33-34)
-  Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau, xem ai được cái gì.
-  Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba. (Mc 15, 24-25)
-  Ông Philatô cho viết một tấm bảng và treo trên thập giá, bảng đó có ghi: “Giêsu Na-da-ret, Vua dân Do Thái.” (Ga 19, 19)
-  Bên cạnh Người, chúng còn đóng đinh hai tên cướp, một đứa bên phải, một đứa bên trái. (Mc 15, 27)
-  Bấy giờ Đức Giêsu cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.”
-  Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!”
-  Lính tráng cũng chế giễu Người. (Lc 23, 34-36)
-  Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người … … Nhưng tên kia mắng nó … … (Lc 23, 39-40)
-  Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi!”
- Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 23, 42- 43)
-  Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpat, cùng với bà Maria Macđala.
-  Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà.”
-  Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh.” (Ga 19, 25-27)
- Từ giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ cả mặt đất, mãi đến giờ thứ chín.
-  Vào giờ thứ chín, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Ê-li, Ê-li, la-ma xa-bac-tha-ni!” Nghĩa là: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao ngài bỏ rơi con?” (Mt 27, 45-46)
-  Sau đó, Đức Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất.
-  Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: “Tôi khát!”
- Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người.
-  Nhắp xong, Đức Giêsu nói: “Thế là đã hoàn tất!”
-  Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí. (Ga 19, 28-30)
-  Ngay lúc đó, bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới.
-  Đất rung đá vỡ. Mồ mã bật tung, và xác của nhiều vị Thánh đã an nghỉ được trỗi dậy. (Mt 27, 51-52)
-  Hôm đó là ngày áp lễ, người Do Thái không muốn để xác chết trên thập giá vào ngày sa-bát, mà ngày sa-bát đó lại là ngày lễ lớn.
-  Vì thế họ xin ông Philatô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống. (Ga 19, 31)
-  Khi đến gần Đức Giêsu và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người.
-  Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người.
-  Tức thì, máu cùng nước chảy ra. (Ga 19, 33-34)

*********

NĂM SỰ MỪNG

Thứ nhất thì ngắm: “Đức Chúa Giêsu sống lại, ta hãy xin cho được sống lại thật về phần linh hồn”

-  Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mac-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ.
-  Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.”
-  Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ.
-  Cả hai cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào.
-  Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuộn lại, xếp riêng ra một nơi.
-  Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin.
-  Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cỏi chết.
-  Sau đó các môn đệ lại trở về nhà.
-  Bà Ma-ri-a Mac-đa-la đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc.
-  Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, thì thấy hai Thiên Thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân.
-  Thiên Thần hỏi bà: “Này bà, sao bà khóc?”
-  Bà thưa: “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu!”
-  Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giêsu đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giêsu.
-  Đức Giêsu nói với bà: “Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?”
-  Bà Maria tưởng là người làm vườn, liền nói: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.”
-  Đức Giêsu gọi bà: “Maria!”
-  Bà quay lại và nói bằng tiếng Hip-ri: “Ráp-bu-ni!” (nghĩa là ‘lạy Thầy’)
-  Đức Giêsu bảo: “Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: ‘Thầy lên cùng Cha của Thầy cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em’.”
-  Bà Maria Macđala đi báo cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa”, và bà kể lại những điều Người đã nói với bà. (Ga 20, 1-18)
-  Cũng ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau, cách Giêrusalem chừng mười một cây số ……
-  Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. … …
-  Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. (Lc 24, 13-31)
-  Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” 
-  Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn.
-  Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.
-  Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” -  Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20, 19-23)
-  Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. … …
-  Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em.” Rồi Người bảo ông Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.”
-  Ông Tôma thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con.”
-  Đức Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy nên anh tin, Phúc cho những ai không thấy mà tin!” (Ga 20, 26-29)
-  Sau đó, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở biển hồ Ti-bê-ri-a. (Ga 21, 1)

Thứ hai thì ngắm: “Đức Chúa Giêsu lên trời, ta hãy xin cho được lòng ái mộ những sự trên trời”

-  Trước ngày ấy, Người đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần.
-  Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình.
-  Trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa
-  Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, “điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần.”
-  Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không?”
-  Người đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari, và cho đến tận cùng trái đất.”
-  Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa.
-  Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bổng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1, 2-11)

Thứ ba thì ngắm: “Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, ta hãy xin cho được lòng đầy dãy mọi ơn Đức Chúa Thánh Thần”

-  Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp.
-  Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi lửa tản ra đậu trên từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho. (Cv 2, 1-4)
-  Nghe tiếng ấy, có nhiều người kéo đến. Họ kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình.
-  Họ sửng sốt, thán phục và nói: “Những người đang nói đó không phải là người Galilê cả ư? Thế sao mọi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta?” (Cv 2, 6-8)
-  Ai nấy đều sửng sốt và phân vân, họ bảo nhau: “Thế nghĩa là gì?”
-  Nhưng người khác lại chế nhạo: “Mấy ông này say bứ rồi!”
-  Bấy giờ, ông Phêrô đứng chung với Nhóm Mười Một lớn tiếng nói với họ rằng: “Thưa anh em miền Giuđê và tất cả những người đang cư ngụ tại Giêrusalem, xin biết cho điều này, và lắng nghe những lời tôi nói đây. Không, những người này không say rượu như anh em nghĩ, vì bây giờ mới là giờ thứ ba. Nhưng điều đó đã được ngôn sứ Giô-en nói đến: Thiên Chúa phán: Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người phàm, … … Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ Thần Khí  Ta cả trên tôi nam tớ nữ của Ta, và chúng sẽ trở thành ngôn sứ … …” (Cv 2, 12-18)
-  “Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng. Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống: đó là điều anh em đang thấy đang nghe.” (Cv 2, 32-33)
-  Vậy toàn thể nhà Israel phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô.” (Cv 2, 36)

Thứ tư thì ngắm: “Đức Chúa Trời cho Đức Bà lên trời, ta hãy xin ơn chết lành trong tay Đức Mẹ”

-  Đức Kitô đã trỗi dậy từ cỏi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại.
-  Qủa thế, như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống.
-  Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: Mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm, thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. (1Cr 15, 20-23)
-  Thật vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người.
-  Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết, vì Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. (1Cr 15, 25-27)
-  Tử thần đã bị chôn vùi. Đây là giờ chiến thắng! (1Cr 15, 54)

Thứ năm thì ngắm: “Đức Chúa Trời thưởng Đức Mẹ trên trời, ta hãy xin Đức Mẹ phù hộ cho ta được thưởng cùng Đức Mẹ trên Nước Thiên Đàng”

-  Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: Một người phụ nữ, mình khoát mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao (Kh 12, 1)
*  Các tước hiệu Đức Mẹ Maria đã được Thiên Chúa ban thưởng (theo kinh Cầu Đức Bà). Mẹ là:
-     … …
- Rất Thánh Đức Mẹ Chúa Trời
- Nữ Vương các Thánh Thiên Thần
- Nữ Vương các Thánh Tổ Tông
- Nữ Vương các Thánh Tiên Tri
- Nữ Vương các Thánh Tông Đồ
- Nữ Vương các Thánh Tử Vì Đạo
- Nữ Vương các Thánh Hiển Tu
- Nữ Vương các Thánh Đồng Trinh
- Nữ Vương các Thánh Nam cùng các Thánh Nữ
- Nữ Vương chẳng hề mắc Tội Tổ Tông
- Nữ Vương Hồn Xác Lên Trời
- Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân Côi
- Nữ Vương Ban Sự Bình An