... Cách đây 90 năm - 
			giới truyền thông Áo Quốc phổ biến bài phỏng vấn cô Johanna, vài 
			tháng trước khi cô thiếu nữ qua đời tại một bệnh viện ở thủ đô 
			Vienne. Xin giới thiệu nguyên văn bài trả lời của cô Johanna.
        
 
		
			
			
			Sau khi vị bác sĩ báo cho tôi biết kết 
			quả cuộc thử nghiệm chứng ung thư trầm trọng, tôi đứng lên ra đi rảo 
			quanh một vòng trên đường phố.
			
			Tôi hoàn toàn cô độc.  Tôi có cảm giác mọi người mọi vật chung quanh 
			đều biến mất.  Tôi từng làm không biết bao nhiêu việc nhưng giờ đây 
			tôi cảm thấy trống không như chưa làm được việc gì.  Tôi từng quen 
			không biết bao nhiêu người, từng có nhiều người thân yêu, nhưng giờ 
			đây giống như thể tôi chưa từng quen ai, biết ai và yêu thương ai…. Tôi 
			lặng lẽ khóc.  Nước mắt chan hòa lẫn lộn với các giọt nước mưa đang 
			tuôn xuống ướt đẫm khuôn mặt tôi.
			
			Quang cảnh đường phố giống như trống không, bởi lẽ, mọi cái đều trở 
			thành hỗn độn: ánh sáng và màu sắc, các cánh cửa hàng, các tiếng 
			động đủ loại, tiếng còi xe, rồi tiếng nói, tiếng cười.  Người người 
			đi đi lại lại, ngược ngược xuôi xuôi.  Lề đường bên này, lối đi bên 
			kia.  Tất cả hối hả không rõ họ đi đâu? để làm việc gì?  Tôi muốn 
			giơ tay chặn đứng mọi người dừng lại rồi hét lớn:
			- Tôi đang sắp chết đây!
			
			Thế nhưng, chắc chắn không ai thèm để ý đến lời tôi nói, bởi lẽ, đối 
			với họ, chuyện tôi sắp chết đâu có gì quan trọng?  Chẳng lẽ vì tôi 
			sắp chết mà họ phải ngưng ngay mọi công việc sao?
			
			Tôi muốn ra lệnh cho trái đất đứng im, dùng một nút bấm để tắt 
			hết mọi ngọn đèn trên thế giới, để tất cả rơi vào đêm đen, y như 
			bóng tối đang vây bủa bên trong lòng tôi, và nhất là, để cho toàn vũ 
			trụ rơi vào cõi thinh lặng.
			
			Tôi không thể nào hiểu được cái gì có giá trị đích thật.  Mọi người 
			mọi vật vẫn tiếp tục hiện hữu trên cõi đời, sau khi tôi không còn 
			hiện hữu nữa!
			
			Nghĩ đến đây, tôi cảm thấy như có một vật thật nặng đè trên ngực 
			khiến tôi bị ngộp thở..  Thế là, tôi ngước mắt nhìn lên Trời, 
			trong một tác động phản xạ, y như thể tôi muốn tìm kiếm từ Trời Cao 
			một luồng khí hầu giúp tôi hít thở bình thường.
			
			Ít lâu sau đó, một người đàn bà trẻ tiến lại gần tôi.  Bà trông thật 
			đẹp nhưng có dáng điệu của một người đang âu sầu phiền não tột độ.
			
			Đôi mắt Bà đỏ hoe, màu đỏ của máu, đỏ vì đã khóc quá nhiều.  Đôi môi 
			Bà nhợt nhạt run run như thể bị lạnh.  Nhưng thật ra không phải vì 
			lạnh.  Không! Khuôn mặt Bà tái xanh.  Niềm đau của Bà lộ rõ gần như 
			có thể sờ mó được.  Bà âu yếm hỏi tôi:
			
			
			Câu nói thoạt nghe có vẽ đơn sơ nhưng 
			lại chất chứa một âm vang cao cả rộng lớn.  Còn tiếng nói thì, vô 
			cùng dịu ngọt không thể nào diễn tả được..  Mãi sau này tôi mới hiểu 
			được rằng, chẳng những Bà muốn che tôi khỏi cơn mưa, vì thấy tôi bị 
			ướt mèm, nhưng thật ra, Bà còn muốn làm thêm một cái gì đó quan 
			trọng hơn nhiều.
			
			
			 Và 
			quả thật, một việc kỳ diệu đã xảy ra cho tôi vào chính buổi chiều 
			hôm ấy.  Trước đó, lúc tôi ngước mắt nhìn Trời và tha thiết cầu 
			khẩn, lời khẩn cầu như có sức mạnh xuyên thấu Trời Cao. Trời Cao 
			rộng lượng đáp trả tiếng tôi kêu cầu và đã khoan dung quá bước đến 
			tiếp cứu tôi..  Tôi đưa mắt nhìn sang Người Đàn Bà và đáp:
Và 
			quả thật, một việc kỳ diệu đã xảy ra cho tôi vào chính buổi chiều 
			hôm ấy.  Trước đó, lúc tôi ngước mắt nhìn Trời và tha thiết cầu 
			khẩn, lời khẩn cầu như có sức mạnh xuyên thấu Trời Cao. Trời Cao 
			rộng lượng đáp trả tiếng tôi kêu cầu và đã khoan dung quá bước đến 
			tiếp cứu tôi..  Tôi đưa mắt nhìn sang Người Đàn Bà và đáp:
			
			
			Bà Đẹp mở rộng áo choàng kéo tôi núp 
			vào vòng tay Bà.  Khi chiếc áo choàng phủ kín người, tôi cảm nhận 
			một niềm an bình bao la và một niềm vui chưa từng hưởng nếm.  Chúng 
			tôi cùng tiến bước.  Trong vòng tay che chở của Bà, tôi cảm thấy an 
			toàn như đứa con thơ nép mình lòng Mẹ.  Đi được một quãng, Bà cầm 
			lấy tay tôi siết thật mạnh như truyền thông can đảm rồi nói:
			
			
			Chúng tôi cùng bước vào một ngôi thánh 
			đường.  Bà nói thêm với tôi:
			
			
			Vừa nói Bà đưa tôi đến trước Cây Thánh 
			Giá.
			
			Đứng trước Cây Thánh Giá, Bà chăm chú nhìn tôi.  Từ ánh mắt 
			sâu thẳm của Bà tôi tiếp nhận Ánh Sáng và tôi bỗng hiểu rõ tất cả. 
			 Bà không cần nói thêm lời nào nữa cho đến lúc Bà tiến đến dưới chân 
			Đức Chúa GIÊSU KITÔ, nơi có bức tượng giống y như Bà.  Tức khắc, 
			toàn nhà nguyện bỗng sáng rực một luồng sáng diệu kỳ và cùng lúc, Bà 
			Đẹp biến đi, chỉ còn lại bức tượng Đức Mẹ MARIA.
			
			Tôi hiểu rằng, Bà Đẹp chính là Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA. 
			 Đức Mẹ đích thân đến dạy tôi biết chấp nhận đau khổ và để nói với 
			tôi rằng:
			-  Tôi không đơn độc cũng không còn giống như trước nữa!
			
			Từ buổi gặp gỡ ấy, Đức Mẹ MARIA dạy tôi sống một chiều kích mới. 
			 Tôi cũng biết nhìn thấy trong nỗi đau đớn phản ánh nỗi đau đớn tột 
			cùng của Đức Chúa GIÊSU KITÔ bị đóng đinh trên Cây Thánh Giá và bị 
			bỏ rơi. Tôi cũng học chuẩn bị cuộc hành trình tiến về Thiên Quốc 
			bằng cách nằm gọn trong vòng tay che chở của Đức Mẹ MARIA.
			
			Tôi cảm thấy thật hạnh phúc và tôi nồng nhiệt mong ước rằng, tất 
			cả mọi người sống trên trái đất này, phải biết mình có một NGƯỜI MẸ 
			thật cao cả đang ở trên TRỜI!
			
			... Đứng gần thập giá Đức Chúa GIÊSU, có Thân Mẫu Người, 
			Chị của Thân Mẫu, bà Maria vợ ông Clopas, cùng với bà Maria Magdala. 
			Khi thấy Thân Mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Chúa 
			GIÊSU nói với Thân Mẫu rằng: ”Thưa Bà, đây là con của Bà”. Rồi Ngài 
			nói với môn đệ: ”Đây là Mẹ của con”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước 
			Bà về nhà mình(Gioan 19,25-27).