Sau khi Thánh Giá đã được dựng lên trên
đồi Canvê, Chúa Giêsu âm thần thưa lên với Cha của Ngài những lời sau
đây, trước khi nói lên bảy lời từ Thánh Giá mà Phúc Âm đã thuật lại:
"Lạy Cha, từ Thánh Giá con đang nằm đây, Con tôn vinh Cha vì đã nâng
Nhân Tính của Con lên chức phẩm tối cao là làm Đấng Cha tấn phong, ban
cho toàn quyền thống trị mọi thụ tạo, cả trong phạm vi tự nhiên, cả
trong phạm vi ân sủng. Chính vì nhờ cón Thánh Giá, mà Con hoàn toàn công
cuộc Cứu Chuộc loài người, nên Con xin cho Thánh Giá nên toà án công
chính và nhân hậu của chúng ta, vừa đối với những kẻ bị luận phạt vì
ngoan cố nổi loạn nên chịu hỏa ngục, vừa đối với những người được tuyển
chọn đã trung thành với lề luật của Con mà xứng đáng hưởng gia nghiệp
Con lập. Đấng Chân Phúc trên hết là chính Mẹ rất trong sạc của con, con
đặt Người là Đấng thừa kế, phổ quất toàn thể sản nghiệp tự nhiên ân sủng
và vinh quan thuộc về con. Con đặt người làm chủ tuyệt đối trên các
thiên thần và loài người, trên cả loài ma qủy và toàn thể các thụ tạo
không có lý trí - Sau cùng, Con đặt Người làm chủ kho ban phát hết mọi
của cải trên trời dưới đất, và tất cả những gì Người định đoạt trong
Giáo Hội, đều được xác nhận ở cả trên trời". Đấy là đại ý bản chúc thư
Chúa di lại cho loài người. Bản chúc thư này được dấu kín và cất giữ
trong Trái Tim Mẹ Maria, để được thực hiện tuỳ thời gian.
Thánh Giá vừa là Ngai vương đế của Chúa Giêsu, vừa là toà giảng Chúa dạy
khoa học sự sống thêm vào giáo thuyết của Ngài một mẫu gương Ngài làm,
nên, trước hết, Ngài tuyên bố một lời chứa đựng đức ái ở cao độ tuyệt
vời: “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Như
vậy là Ngài đã yêu thương cừu địch của Ngài, không những tha thứ cho họ,
mà còn bào chữa cho họ, ngay trong lúc họ tỏ ra tàn ác đến độ cao nhất
đối với Ngài. Nghe lời ấy, một trong hai tên đạo tặc Dimas, đã hiểu ra
chút ít tình thương nhân hậu của Chúa, và nhờ có Mẹ Maria cầu xin cho, y
được soi sáng trong tâm hồn, nhân ra Người chịu đóng đanh bên y là Đấng
Cứu Thế. Cho nên, sau khi tự trách mình và quở trách tên đồng bạn với
mình vì đã phạm thượng, y kêu lên với Chúa: “Lạy Chúa, xin Chúa nhớ đến
con khi Chúa vào nước Chúa”. Và Chúa Giêsu đã trả lời: “Ngay hôm nay,
con sẽ được vào cõi phúc”, tức là u ngục, nơi mà Ngài sắp tới để mang
nguồn vui thiên đàng đến cho. Sau cuộc ban ân sủng chinh phục đó, Chúa
Giêsu thưa với Mẹ Ngài: “Thưa bà, Con bà đây này”. Chúa chỉ nói tiếng
“Bà” để tự tước bỏ niềm an ủi đi liền với tiếng “Mẹ” rất dịu dàng trong
lúc đau đớn ấy vì loài người, nhưng trong thâm tâm, Chúa thêm rằng: “Mẹ
là phụ nữ hạnh phúc hơn hết các phụ nữ, luôn luôn trung thành yêu mến
con, luôn luôn ân cần phụng sự con, giờ đây, con sắp sửa về với Cha của
Con, Con không sống với Mẹ nữa nhưng môn đệ dấu yêu của con sẽ phục vụ
Mẹ như Con phục vụ Mẹ”. Từ lúc ấy, Mẹ Maria đã nhận Thánh Gioan làm con
mình với một niềm tùng phục khiêm nhượng. Chúa Giêsu cũng nói với Thánh
Gioan: “Mẹ của con đây này”. Qua lời ấy, Thánh Gioan nhận được nhiều áng
sáng mới về những vẻ cao trọng của Mẹ Maria, để phục vụ Mẹ cách hoàn hảo
hơn.
Vào lúc khoảng 3 giờ, Chúa Giêsu kêu lên hiển hách bằng ngôn ngữ Hibá
rằng: “Ôi thiên Chúa Tôi, tại sao Ngài bỏ rơi Tôi?”. Bấy giờ Ngài đặc
biệt nhìn thấy những kẽ bị trầm luân: sự chúng phải xa lìa Ngài đời đời,
sau khi Ngài chịu biết bao đau khổ cho chúng như vậy làm cho Ngãi rất
đau đớn, đau đớn như ở vườn Cây Dầu trong đêm vừa qua.
Để chứng tỏ tâm tình khao khát cho mọi người được cứu rỗi, Ngài kêu lên
lời thứ năm: “Ta khát;” thật ra, những đau khổ Ngài chịu trong cuộc tử
nạn rất có thể gây cho Ngài một sự khát nước tự nhiên, nhưng đó không
phải lá duyên cớ để Ngài kêu khát. Khát đây là Ngài khát các linh hồn.
Chỉ một mình Mẹ Maria mới hiểu như thế. Còn bọn lý hình hiểu theo lý
thường, nên chúng muốn thỏa tính cười nhạo của chúng mà lấy một cái bọt
bể, thấm vào mật đắng và dấm chua, cắm vào đầu một cái gậy, nâng lên tới
miệng Ngài. Muốn làm trọn lời tiên báo của tiên tri Đavít, Chúa Giêsu đã
uống một chút để tỏ ra rằng Ngài dung nhận số phận của những kẻ bị trầm
luôn; song Ngài đã ngưng lại ngay vì lời Mẹ rất thống thiết của Ngài cầu
xin.
Cho nên, sau cùng, Ngài ngước mắt lên trời nói lời thứ bảy: “Lạy Cha,
Con phó linh hồn con trong tay Cha”. Con đã từ Cha ra đi cốt để nhận một
cuộc sống chết chóc, bây giờ con bỏ nó mà trở về với Cha. Sau lời cuối
cùng này, Ngài lại gục đầu xuống và trút linh hồn.
Với tư cách là Mẹ Đấng Cứu Thế và là Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc, Mẹ Maria
không những thấu hiểu tất cả những mầu nhiệm ấy, mà còn cảm thấy tất cả
những đau khổ trong cuộc tử nạn. Đau khổ vì các chết của Con Mẹ dằn vặt
Mẹ hơn tất cả những đau khổ khác, và còn vượt trên tất cả những đau khổ
loài người phải chịu từ thuở tạo thành trời đất. Nếu Mẹ không chết vì
các chết ấy, đó là do một phép lạ vĩ đại hơn tất cả các phép lạ đã gìn
giữ Mẹ trong tất cả các phép lạ trong suốt cuộc Tự Nạn. Để ân thưởng cho
sự đau đớn sau cùng này, Thiên Chúa làm cho chút hữu thể trần gian từng
đã hoạt hoá thân xác Đồng Trinh của Mẹ nên thiêng liên cách đặc biệt hơn
nữa.
Mẹ cũng được ân thưởng vì đã muốn cho vạn vật đảo lộn bấy giờ. Trời đất
xáo động, các tầng trời ngưng vận chuyển, trái đất run giùng, núi non vỡ
lở, đá vỡ ra tan nát; mồ mả mở tung; màn trong Đền Thờ xé đôi. Nhiều
người xúc động trước biến cố lạ lùng ấy đã nhận biết Chúa Giêsu là
Thánh, chẳng hạn như ông bách quân trưởng, và nhiều người khác vừa từ
núi Canvê trở về vừa đấm ngực hối hận. Nhưng người Do Thái ở Giêrusalem
bấy giờ mặc dầu kinh hoàng, họ cũng không chịu mở mắt nhìn nhận sự thật
mà cả vạn vật vô linh đều tuyền nhận qua những đảo lộn khác thường ấy.
Luciphe và chúng qủy mà Mẹ Maria đã bắt phải ở lại, bị vón lại như một
lũ sâu bọ, đứng thất kinh bất động gần Thánh Giá. Lúc ấy, Chúng phải
chịu những cực hình rất khốn nạn, chỉ muốn chui xuống hỏa ngục cho rồi,
nhưng không thể được. Và khốn cho chúng là cứ mỗi lời Chúa phán từ Thánh
Giá là chúng lại phải bẽ bàng khổ sở. Cực nhất là lời: “Thưa Bà, Con Bà
đây này”, và “Đã hoàn tất”. Sau lời “Thưa Bà,” Lucia mới nhận ra rõ ràng
Mẹ Maria là Đức Nữ Thiên Chúa đã cho Y thấy trên trời trước khi Y sa
ngã. Bấy giờ Y và chúng qủi mới cào cấu nhau, cắn xé nhau, giận giữ như
một đàn dã thú; nhất là Y càng căm giận Mẹ hơn, nhưng chẳng làm gì được
nữa. Y nhục nhã qúa muốn hoá ra khói mà bay đi cho khuất, nhưng không
sao được. Sau lời “Đã hoàn tất” đống ý với Chúa Giêsu, Mẹ Maria xô chúng
qủi xuống hoả ngục. Chúng bị nhục nhã trong đó hết sức, đứa nào cũng
muốn tìm một xó kẹt xâu kín nhất má chôn mình vào. Chúng nhận ra chắc
chắn Thần Tính Chúa Giêsu Kitô, hiệu qủa ơn cứu chuộc, những cao trọng
của Mẹ Maria, quyền lực và các linh mục được thông phần với Chúa Cứu Thế
để chống lại chúng và để giúp đỡ những người lành. Càng nhận ra, chúng
càng căm hờn phẫn nộ. Chúng tìm những phương thế mới để báo thù Thiên
Chúa và loài người. Chúng quyết gieo rắc nhiều tội lỗi để gặt hái những
kẻ trầm luân. Chúng thúc giục nhau duy trì việc thờ ngẫu tượng nơi loài
người, tìm ra những lạc giáo, hủ hoá tuổi trẻ, xáo trộn đời sống hôn
nhân, bắt hại người lành, dục người ra đừng chịu các nhiệm tích, dập tắt
lòng đạo đức, nhất la xui người ta quên ơn Cứu Chuộc của Chúa, coi
thường sự cầu bầu của Mẹ Maria, đừng chạy tới cầu xin Mẹ, đừng tôn kính
Mẹ. Để làm những việc ấy, một mặt chúng quyết định dùng các vua chúa,
các nhà cầm quyền làm tay sai để bắt bớ Giáo Hội, một mặt chúng nhất
định dùng những linh mục làm dụng cụ để gieo rắc lầm lạc vào kho đức tin
tinh ròng của Giáo Hội, tạo ra những bèụ rối và bè đảng, để chia rẽ giáo
hội của Chúa về những tín lý và hợp nhất. Chúng qủi đã dành hẳn một năm
trời để bàn bạc và quyết nghị những kế hoạch gian hiểm ấy. Từ đó tới
nay, chúng đã cuồng loạn bành trướng ác tâm của chúng như thế nào ta đều
biết.
Về phần Mẹ Maria, Mẹ vẫn đứng bên Thánh Giá, vững vàng như một cột đồng
trụ giữa muôn lớp sóng đau khổ mãnh liệt hãi hùng. Tâm trí Mẹ suy niệm
trong trí thức hết sứ thâm thúy những mầu nhiệm Cứu Chuộc, ca tụng hòa
điệu lạ lùng sự khôn ngoan Chúa đã xếp đặt trong việc Cứu Chuộc ấy. Càng
hiểu thấu ơn Cứu Chuộc trời bể bao la, Mẹ lại càng đau đớn vì thấy trước
những bội bạc của loài người. Niềm đau này là niềm đau lớn lao nhất của
Mẹ.
Nhưng Mẹ cũng không quên cẩn trọng lo đến việc an táng Con Chí Thánh Mẹ.
Trong nỗi bối rối mà Thiên Chúa hữu ý gây nên cho Mẹ, Mẹ khiêm nhượng
hỏi các thiên thần hầu cận cho biết phải làm thế nào để tháo Di Thể Chúa
Giêsu xuống khỏi Thánh Giá, phải mai táng Chúa nơi nào cho xứng đáng.
Nhưng các thiên thần trả lời Mẹ rằng: Xin Mẹ cứ chuẩn bị tâm hồn để chịu
một đau khổ nữa đã. Luật không cho phép tháo xác tội nhân tử giá xuống
khi chưa có phép quan trên. Mặt khác, Chúa cón muốn đổ tới giọt máu cuối
cùng cho loài người.
Câu trả lời ấy càng làm tăng thêm nỗi xao xuyến bình thản của Mẹ. Một
lát sau, thấy tiến lên đồn Canvê một bọn người có võ trang, Mẹ nói với
Thánh Gioan và ba bà Maria rằng: “Mẹ đau khổ thật đến mức rồi. Người ta
còn đến hành hạ Xác Thánh Con Mẹ nữa kia kìa;” Lúc ấy đã là chiều áp
ngày Sabat đại lễ. Để chuẩn bị mừng lễ mà không phải bận tâm gì đến mấy
tử tội, người Do Thái đến xin với Philatô cho phép họ đập dập ống chân
ba người tử tội để họ chóng chết mà tháo xác xuống ngay chiều hôm ấy.
Viên trấn thủ bằng lòng. Bọn lính đến đập dập ống chân hai kẻ ác phạm
còn sống, nhưng Chúa Giêsu, thấy Ngài đã chết, chúng không đập dập ống
chân Ngài nữa, nhưng một người lính tên là Longinô, muốn chắc Chúa Giêsu
đã chết thật đã đến gần Chúa phóng chiếu đòng lên, cắm vào ngực Chúa.
Đòng cắm vào thấu Trái Tim Chúa, liền có Nước và Máu chảy ra, như Thánh
Gioan chứng kiến đã thuật lại trong Phúc Aâm của Ngài.
Mẹ Maria lúc ấy cũng bị đâm thâu vào trái tim bằng một sự đau đớn y như
chịu một lưỡi đòng cắm vào, và cái đau của linh hồn Mẹ còn nhức nhối hơn
nữa. Nhưng, cảm thương Longinô, Mẹ nói với anh ta: “Xin Thiên Chúa ghé
mắt nhân từ thương nhìn đến anh vì nỗi đau khổ anh vừa gây cho tôi”.
Chúa Giêsu nhậm lời cầu khoan dung ấy của Mẹ: Mấy giọt Máu và Nước từ
nơi Trái Tim Chúa chảy ra bắn lên khuân mặt khô cằn của người lính đó.
Mắt anh ta vốn kém, gần như chỉ một mắt còn sáng, nhưng Nước và Máu ấy
đã làm anh ta sáng luôn cả hai mắt, đồng thời con mắt linh hồn anh lại
cũng được soi sáng, mở ra nhìn nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa mà anh đã
đả thương một cách dã man. Anh khóc lóc tội mình, tuyên xưng đức tin của
anh vào Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, là Đấng Cứu Thế thật. Người Do
Thái rất xấu hổ và căm giận anh.
Mẹ Maria hiểu ý nghĩa của mầu nhiệm vết thương đòng thấu trái tim Chúa
ấy: chính vết thương ấy đã sinh ra: Giáo Hội mới Chúa lập vớùi muôn muôn
thác nguồn ân sủng. Mẹ sáng tác một ca khúc chúng tụng vinh quang Chúa
Giêsu để mừng tạ những sự kiện cao cả ấy. Trong lúc đó, chiều cứ lên
dần, Mẹ Maria chưa biết sẽ an táng Con Mẹ ở đâu. Một nỗi băn khoăn chùm
kín lòng Mẹ. Ngước mắt lên trời, Mẹ cầu xin Cha Hằng Hữu ban ánh sáng
soi cho Mẹ và giúp phương tiện an táng Chúa.
Một lát sau, từ chân đồi tiến lên một bọn người có vác thang và những
dụng cụ khác. Thấy thế, Mẹ Maria hốt hoảng, ngờ là họ lại lên làm khổ
cho thi thể Chúa Giêsu. Mẹ nghẹn ngào nói với ông Gioan: “Con ơi; những
người đó lại lên đây làm gì thế?” Ông Gioan nhướng mắt nhìn kỹ, rồi trả
lời: “Thưa Mẹ, không hề gì đâu. Đấy là ông Giuse người Arimathê và ông
Nicôđêmô, với gia nhân của họ. Họ là thân hữu và môn đệ của Thầy”.
Ông Giuse sinh trưởng từ một dòng tộc quý phái đang giữ chức quan cao ở
thành Giêrusalem. Ông có địa vị trong Hội Đồng Cộng Tọa, nhưng không bao
giờ đồng ý với Hội Đồng trong việc luận giết Chúa Giêsu. Ông can đảm đến
xin với Philatô cho phép ông được an táng Chúa Giêsu, đấng mà ông từng
xưng nhận là Thiên Chúa. Philatô nể chức vụ của ông không dám chối từ.
Để có người cộng tác, ông đi nói với ông Nicôđemô là người cũng tin Chúa
Giêsu. Ông Nicôđêmô là một nhà bác học, thông thạo văn chương và thánh
kính, đã từng đến nghe Chúa giảng ban đêm. Ông Giuse mua một khăn niệm
trắng, hàng tốt; còn ông Nicôđêmô đem gần 100 cân hương liệu vẫn xử dụng
vào việc khâm liệm những bậc quyền quý. Không những có các gia nhân của
hai ông theo lên núi Canvê mà còn có cả nhiều người từng được nhờ ơn
Chúa ban, cũng lên núi bấy giờ.
Khi lên tới đỉnh núi Canvê nhìn thấy Mẹ Maria đứng âu sầu bên Thánh Giá,
hai ông xúc động ngây người quên cả chào hỏi Mẹ, cả hai cùng phủ phục
dưới chân Mẹ, không cầm nổi được nước mắt, không thốt lên được một tiếng
nào. Hai ông cứ phủ phục như thế mà khóc tấm tức nghẹn ngào. Cho tới lúc
Mẹ Maria nâng dậy, an ủi và khuyến khích mới nguôi đi được. Bấy giờ hai
ông mới lên tiếng chào kính Mẹ, tỏ lòng phân ưu rất khiêm tốn và bầy tỏ
ý định của mình. Mẹ cảm ơn lòng đạo hạnh của hai ông, và đoan chắc Thiên
Chúa sẽ thương công hai ông bội hậu. Ông Giuse thưa lại rằng: “Kính lạy
Đức Mẹ rất kính mến, nghe lời Đức Mẹ nói, chúng con cảm thấy trong tận
đáy lòng chúng con nguồn ơn, vừa êm dịu vừa mạnh mẽ, của Thần Trí Chúa
đổ đầy tràn lòng chúng con những tâm tình rất thân thiết, chúng con
không thể nào đáng được và diễn tả ra”.
E rằng Mẹ sẽ phải đau đớn khi tháo Xác Chúa xuống, hai ông xin Mẹ tạm
lui ra xa một chút. Nhưng mẹ trả lời rằng không sao, lúc Chúa Giêsu chịu
đóng đanh mà Mẹ còn đứng bên được, lúc tháo Xác Thánh Chúa xuống, Mẹ
cũng xin cho được ở gần bên. Qủa thật, nhìn thấy Thân Xác Chúa bị ta nát
như thế, Trái Tim Mẹ bị xé nát nhừ, nhưng càng được nhìn thấy Chúa gần
hơn, đau khổ của Mẹ càng dịu đi hơn. Hai ông liện sẵn sàng tháo Xác Chúa
xuống. Bắc thang lên dựa vào Thánh Giá, hai ông bắt đầu bỏ mạo gai ra
vừa cung kính vừa khóc đặt vào tay Mẹ Maria. Mẹ quỳ xuống đón nhận, dâng
lòng sốt sắng lạ lùng thờ lạy mạo gai, hôn kính thắm thiết và để nước
mắt rơi đầy; Mẹ áp mạnh mạo gai lên môi, một số gai đâm thủng môi miệng
Mẹ. Mẹ lại cầu xin Cha Hằng Hữu giục lòng người ta luôn luôn hết sức tôn
kính những chiếc gai đã được Máu Thánh Con Mẹ thánh hiến ấy. Và những
đanh sắt thâu qua chân tay Chúa, Mẹ cũng tỏ lòng cung kính với tâm tình
thiết tha và thờ lạy như vậy. Tất cả những người ở bên Mẹ bấy giờ tất cả
đều quỳ gối thờ lạy mạo gai và đanh sắt Thánh theo gương Mẹ.
Khi hai ông đã hạ Xác Thánh Chúa xuống, Mẹ cung kính quỳ gối xuống đón
nhận lên hai cánh ta đã trải khăn liệm trắng của Mẹ. Ông Gioan đứng phía
đầu Chúa, bà Mađalêla đứng phía chân, giúp ông Giuse và ông Nicôđêmô đem
Xác Thánh từÕ Thánh Giá xuống. Rồi cả bốn người sầu thương, đôi mắt tràn
lệ hết sức cung kính đặt lên tay Mẹ niềm cảm thương xoáy sâu vào tâm hồn
Mẹ vừa tràn ra một đau khổ đến tuôn lệ Máu, vừa khơi dậy một vui mừng vì
chiếm lại được báu tàng thần linh của Mẹ. Sau khi thờ lạy Xác Thánh Chúa
rồi, Mẹ ngồi xuống, ẵm Xác Chúa trên cánh tay cho các thiên thần, thánh
Gioan và tất cả những người khác lần lượt theo thứ tự thờ lạy rất cung
kính thiết tha.
Sau đó, ông Gioan và ông Giuse xin phép Mẹ để khâm liệm Xác Thánh Chúa
mà an táng. Đặt Xác Thánh Chúa trên khăn liệm, các ông sức hương thơm
khắp mình Chúa rồi đặt trong một quan tài để đưa vào phần mộ. Mặc dầu
rất đau khổ, Mẹ cũng chăm chú đến từng chi tiết nhỏ. Mẹ mời gọi một số
rất đông thiên thần từ trời xuống hợp với các thiên thần hầu cận Mẹ, dự
lễ an táng Đấng Sáng Tạo họ. Các thiên thần mặc hình người đến dự ngay,
nhưng chỉ có một mình Mẹ nhìn thấy. Cuộc hành tống bắt đầu. Ông Gioan,
ông Giuse, ông Nicôđêmô và viên bách quan trưởng trở lại làm nô tì
khiêng quan tài. Mẹ Maria, ba bà Maria và một số người tin Chúa theo
sau, những người này đã lên núa Canvê sau khi nghe tin ông Longinô đâm
trái tim Chúa và các ông Giuse, Nicôđêmô lên tháo xác Chúa. Đám tang âu
sầu lặng lẽ đi sang một khu vườn của ông Giuse, giáp bên chân đồi Canvê,
trong vườn này có một cái hang khum cao, ông Giuse đã cho làm trong đó
một ngôi huyệt, huyệt này chưa táng ai. Các ông đã táng Chúa trong huyệt
ấy. Mẹ Maria và cả đoàn người theo tang đến thờ lạy Chúa một lần nữa.
Trước khi ra về, các ông vần một tảng đá lớn lấp cửa hang nhưng Phúc Aâm
thuật lại.
Khi cửa mồ Chúa Giêsu vừa được lấp lại, những ngôi mộ đã mở ra lúc Chúa
chịu chết cũng tự đóng lại như là những mộ ấy đã mở ra đã đón Chúa vào
tạm nghỉ. Theo ý muốn của Mẹ, nhiều vị Thiên Thần ở lại bên Mồ Chúa. Còn
tất cả những người dự đám tang đều chật tự và lặng lẽ trở lại núi Canvê,
thờ lạy Thánh Giá một lần nữa, Sau khi Mẹ Maria đã tôn thờ.
Lúc ấy mặt trời đã lặn. Mẹ Maria từ núi Canvê trở về nhà Tiệc Ly, có cả
đoàn người đáng kính ấy đi theo. Mẹ vào nhà với ông Gioan, ba bà Maria
và bạn hữu của họ. Còn những người khác từ giã Mẹ về nhà mình, sau khi
đã sụt sùi xin Mẹ ban phép lành. Mẹ cảm ơn họ vì đã đến chia buồn với Mẹ
và giúp táng Xác Con Mẹ. Họ ra về với lòng tràn đầy ân sủng bên trong và
cảm động vì đức hiền từ khiêm tốn của Mẹ.
Người Do Thái bối rối trước đám tang của Chúa. Nhớ lại Lời Chúa đã nói
trước là Ngài sẽ sống lại ba ngày sau khi chết, họ đến xin Philatô cho
đặt lính canh mồ Chúa. Nhưng sự đề phòng nham hiểm của họ chỉ làm vững
vàng thêm phép lạ lẫy lừng phục sinh mà Ngài đã báo trước. Thật chẳng có
ý muốn nào chống lại được Thiên Chúa cả. |