DẤU CHỈ HY VỌNG: NGÀY MỪNG LỄ ĐỨC MẸ LỘ ĐỨC
Mừng kính lễ Đức Mẹ Lộ Đức là dịp Giáo Hội muốn nhắc nhớ cho toàn thể
các tín hữu biến cố trọng đại mà cách đây đúng 150 năm, vào ngày 11
tháng 2 năm 1858, Đức Mẹ đã hiện ra với cô bé Bernadette trước cửa hang
đá Massabielle-Lourdes (tiếng Việt Nam chúng ta quen gọi là Lộ Đức). Chỉ
5 tháng sau đó Giáo Hội đã mở các cuộc điều tra về biến cố này. Và vào
ngày 18-01-1862, Đức Cha Laurence, Giám Mục Giáo phận Tarbes đã chính
thức nhìn nhận việc Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức.
Lộ Đức ngày nay là một đô thành được cả thế giới biết đến. Với trên 7
triệu lượt khách hành hương hàng năm, đã mang đến cho đô thành này chiều
kích tâm linh có một không hai trên thế giới. Lộ Đức đã trở nên địa điểm
gặp gỡ linh thiêng giữa Thiên Chúa và con người, và giữa con người với
nhau. Không nổi tiếng vì có những những công trình kiến trúc nguy nga,
đồ sộ. Không thu hút vì có những danh lam thắng cảnh lý tưởng. Không ấn
tượng vì có những vĩ nhân hay giai nhân xuất thân từ đây. Nhưng Lộ Đức
thực sự là nơi linh thánh, là nơi mà con người có thể tìm về chính mình,
và cho đi chính mình.
Bạn nói rằng bạn biết yêu, hãy đến Lộ Đức để chứng minh. Bạn nói rằng
bạn đang yêu, hãy đến Lộ Đức để tìm người yêu. Và nếu bạn nói rằng bạn
không biết yêu, Lộ Đức chính là suối nguồn tình yêu cho bạn.
Lòng sùng kính Đức Mẹ Lộ Đức đặc biệt đã bén rễ sâu vào mọi tâm hồn các
tín hữu Việt Nam trong nước cũng như ở Hải ngoại. Những bài hát, lời
kinh, những tâm tình dâng kính Mẹ được cất lên hàng ngày trong các buổi
kinh nguyện gia đình cũng như trước hang đá Lộ Đức của các giáo xứ.
Vâng, một cuộc hành hương về bên Mẹ là niềm mong ước của tất cả mọi
người, nhưng không phải ai cũng có thể thực hiện được điều đó. Do vậy,
ước mong đó thôi thúc con kính mời quý bà, quý ông, và tất cả các bạn
cùng tham gia “cuộc hành hương tinh thần” về bên Mẹ trong ngày lễ trọng
đại này. Bằng cách chúng ta cùng nhau đọc lại sứ điệp Đức Mẹ Lộ Đức,
cùng nhau cầu nguyện Thiên Chúa qua bầu cử của Mẹ cho Hoà Bình trên thế
giới, cho những con người nghèo khổ, bệnh tật, thiếu các điều kiện sống
tối thiểu, cho Giáo Hội Việt Nam thân yêu của chúng ta, cho Thái Hà, cho
Hà Đông và Toà khâm sứ cũ nữa.
Xin cho tình yêu và niềm hy vọng mãi ngự trị, sống động trong tâm hồn
mỗi con người.
Lạy Đức Mẹ Lộ Đức, Mẹ chính là dấu chỉ hy vọng mà Chúa gửi đến cho chúng
con!
Lạy Đức Mẹ Lộ Đức, Mẹ chính là nguồn suối mát cho tâm hồn chúng con!
Lạy Đức Mẹ Lộ Đức, Mẹ chính là Tình Yêu đích thực của Thiên Chúa cho
chúng con!
Xin cảm tạ Mẹ, xin Mẹ bầu cử cho chúng con trước toà Chúa.
Bản văn ‘Sứ điệp Đức Mẹ Lộ Đức’ bằng tiếng Việt Nam dưới đây được dùng
chính thức tại đền Thánh Đức Mẹ Lộ Đức. Xin được gửi tới quý bà, quý ông
và toàn thể các bạn. Chúng ta cùng đọc, suy niệm và cùng hiệp thông cầu
nguyện cho nhau. Sưu tầm: Phê-rô Trần Mạnh Hùng
SỨ ĐIỆP ĐỨC MẸ LỘ ĐỨC
Bạn hành hương đến Lộ Đức, hẳn không phải vì tò mò, nhưng có thể một vài
thắc mắc còn đang phảng phất trong tâm trí của bạn:
- Tại sao lại cầu nguyện trước hang đá này?
- Tại sao các nhà thờ kia lại xuất hiện ở một nơi mà xưa chỉ là rừng núi
hoang vu?
- Tại sao có từng đoàn người tụ họp ở đây?
- Tại sao lại có những cuộc rước kiệu như thế này?
Những việc ấy, với bạn, phải chăng hơi khó hiểu? Hoặc trái lại, bạn đã
mơ ước một cuộc hành hương này từ lâu, và muốn coi đó như một bước tiến
siêu nhiên thực sự. Vậy Lộ Đức với bạn bây giờ là nơi an bình, là chỗ
cầu nguyện.
Nhưng khi bạn vừa đến nơi, rảo quanh đường phố, chắc bạn ngạc nhiên và
có thể cảm thấy chướng mắt vì tính cách thương mại ở đây? Rồi khi vào
đến khuôn viên này biết đâu bạn chẳng tưởng rằng mình sẽ xúc động nhiều,
thế mà có thể lòng bạn vẫn dửng dưng?
Đừng dừng lại ở những cảm giác đầu tiên này bạn ạ. Dù bạn là ai đi nữa,
trước hết hãy tự tủ rằng: ‘ Nơi đây mình đang được Người Mẹ nhân từ đón
tiếp ’. Vậy bạn hãy tìm hiểu ý định của Người. Vì những gì bạn đang thấy
đây, hoàn toàn không ngẫu nhiên, cũng chẳng phải là một thành quả do tổ
chức của loài người! Mà là thực tại do việc trung thành thực thi sứ điệp
mà Đức Mẹ đã trao ban cho Bernadette, sứ giả của Người.
Bernadette là ai? Đó là một cô bé 14 tuổi, không biết đọc cũng không
biết viết, con một gia đình nghèo, có lẽ nghèo nhất Lộ Đức. Gia đình cô
được tạm trú tại một nơi trước kia dùng làm nhà giam, mà nay người ta
vẫn còn gọi là ‘ ngục thất ’. Chính cái nhà giam tồi tàn này đã là nơi
nương thân cho cả gia đình, gồm ông bà thân sinh và bốn chị em
Bernadette. Nhưng Đức Mẹ lại muốn chọn một cô bé tại chính nơi nghèo hèn
này để làm sứ giả của Người, hầu thực hiện nơi đây những điều kỳ diệu mà
bạn đang thấy.
Bạn có hiểu: Tại sao có sự nghèo khổ đến thế?
Tại sao có sự cùng khốn đến như vậy?
Đức Ki tô đã chẳng nói: “Phúc cho những kẻ nghèo khó” đó sao? Hơn nữa ơn
huệ Lộ Đức chỉ có thể đến nhờ những kẻ nghèo khó này! Cuộc sống của
Bernadette quá tầm thường, không có gì đáng ta chú ý. Nhưng sự ngoan
ngoãn vâng lời của cô quả là một đức tính cao quí! Cô luôn lập lại
nguyên văn sứ điệp của Đức Trinh Nữ Ma ri a, và can đảm kiện toàn ý định
của Người. Đây bạn hãy lắng nghe Bernadette kể lại lần đầu tiên Đức Mẹ
hiện ra với cô:
“Lần thứ nhất tôi đến hang đá vào ngày thứ năm 11-02-1858 để nhặt củi
với hai bạn gái khác. Lúc đến máy xay tôi hỏi họ: Các bạn có muốn đi xem
chỗ nước kênh chảy vào sông Gave không? Họ nói: có. Thế là chúng tôi men
theo bờ kênh, đến trước một hang đá, tự nhiên tôi không thể bước xa hơn
được nữa. hai bạn tôi đã tìm đủ mọi cách để lội qua giòng nước trước
hang đá, khi qua được rồi thì họ bắt đầu khóc. Tôi hỏi: tại sao các bạn
khóc? họ bảo: Vì nước lạnh quá! Tôi nhờ họ bỏ mấy tảng đá to xuống nước
để tôi có thể bước qua mà khỏi phải cởi giày, nhưng họ đã từ chối và bảo
tôi phải lội qua như họ. Tôi thử ra xa hơn một chút để xem có thể bước
qua được không nhưng không thể được, tôi đành lùi lại để cởi giày. Vừa
cởi xong chiếc tất thứ nhất, tôi nghe có tiếng gió thổi thật mạnh, tôi
vội quay sang phía đồng cỏ đối diện với hang đá, nhưng cây cối vẫn im
lìm! Tôi tiếp tục cởi giày thì lại có tiếng gió thổi nữa…và vừa ngẩng
đầu nhìn hang đá, tôi chợt thấy một Bà với sắc phục màu trắng. Bà mặc áo
dài và đội khăn trắng, thắt lưng xanh, trên mỗi bàn chân lại có một bông
hoa màu vàng, giống màu tràng hạt đeo trên tay Bà. Lúc ấy tôi hơi sửng
sốt, tưởng mình nhìn lầm, tôi dụi mắt nhìn kỹ lại lần nữa, nhưng vẫn
cũng nhìn thấy Bà đó. Tôi lấy tràng hạt từ trong túi ra, và muốn làm dấu
Thánh giá, nhưng tôi không thể nâng nổi bàn tay lên trán. Tay tôi run
len vì sợ, nhưng tôi không bỏ chạy. Bà cầm tràng hạt đeo trên tay, rồi
làm dấu Thánh Giá, tôi cũng thử làm theo Bà, và lần này tôi mới ‘làm
dấu’ được. Vừa làm dấu thánh giá xong tôi hết không còn cảm thấy sợ hãi
nữa. Tôi quỳ xuống lần hạt trước mặt ‘Bà đẹp’ ấy. Tuy tay lần hạt mà môi
Bà không mấp máy. Khi lần hạt xong, Bà vẫy tôi lại gần nhưng tôi không
dám. Thế rồi Bà biến mất.”
Sau lần này, Bernadette còn được trông thấy Bà hiện ra 17 lần nữa. Khi
hiện ra lần thứ ba, ngày 18-02, Bà mới bắt đầu nói với cô: “Con có vui
lòng đến đây liên tiếp 15 ngày nữa không? Ta không hứa sẽ làm cho con
được sung sướng ở đời này, nhưng là ở đời sau.”
Trong 15 ngày tiếp đó, Bà đã nhắn nhủ và truyền cho Bernadette nhiều
điều:
- Con hãy cầu nguyện cho kẻ có tội.
- Hãy sám hối! sám hối! sám hối!
- Con hãy đến uống và rửa ở suối này.
- Con hãy ăn những ngọn cỏ kia.
- Con hãy hôn đất đền thay cho kẻ có tội.
- Con hãy nói với các linh mục xây một nhà nguyện ở đây.
- Mẹ muốn người ta đến đây rước kiệu.
Đức Trinh Nữ còn dạy Bernadette một kinh nguyện riêng và ký thác cho cô
bà điều bí mật. Tuy nhiên Bà vẫn chưa cho cô biết tên. Mãi đến ngày
25-03-1858 Bà mới mặc khải cho cô danh tánh của mình. Đây bạn hãy nghe
Bernadette vắn tắt kể lại những lần hiện ra trong vòng 15 ngày ấy:
“Bà dặn tôi nhiều lần rằng: Hãy nói với các linh mục xây một nhà nguyện
ở đây; hãy đến uống và rửa ở suối này; phải cầu nguyện cho những người
tội lỗi được ơn hối cải. Trong vòng 15 ngày ấy Bà còn nói với tôi 3 điều
và dặn tôi không được nói với ai. Tôi vẫn trung thành giữ kín. Sau ngày
thứ 15, tôi hỏi Bà ba lần liên tiếp: Bà là ai? Nhưng Bà chỉ mỉm cười.
Tôi đánh bạo hỏi thêm lần thứ tư. Lúc ấy Bà mới buông tay xuống, ngước
mắt nhìn lên trời rồi vừa nói vừa chắp tay trước ngực:
‘QUE SOY ERA IMMACULADA COUNCEPTIOU’
Đó là thổ âm của vùng Lộ Đức lúc bấy giờ, được dịch ra tiếng pháp là: ‘
Je suis l’Immaculée Conception ’, và dịch sang tiếng việt nam là: ‘ Ta,
Vô Nhiễm Nguyên Tội ’. Đó là những lời cuối cùng mà Bà nói với tôi,
Bernadette nói. Cô còn tả thêm: Bà có đôi mắt xanh. Sau đó cô còn được
thấy Bà hai lần nữa. Một lần vào thứ tư trong tuần phục sinh, ngày 7-04.
Và lần cuối cùng vào ngày 16-07. Trong lần cuối cùng đó, cô thấy Bà đẹp
một cách khác thường. Hẳn bạn nhận thấy trong những lần hiện ra, Đức
trinh Nữ đã nói rất ít. Qua những ước muốn của Người, ta nhận thấy sứ
điệp của Người trao cho Bernadette có thể tóm lược trong ba lời mời gọi
sau đây:
Mời gọi cầu nguyện.
Mời gọi sám hối.
Mời gọi rước kiệu và xây nhà nguyện ở đây.
1- Mời gọi cầu nguyện.
Không cần những lời tuyên bố dài dòng, cũng chẳng cần đến những lý
thuyết cao siêu, Đức Ma ri a trong vai trò một huấn luyện viên thành
thạo, đã cầu nguyện với Bernadette. Ngay khi hiện ra lần thứ nhất, Người
đã dậy Bernadette làm dấu Thánh Giá và lần hạt cách sốt sắng. Mỗi lần
hiện ra Người đều làm như vậy. Người con dậy riêng cho Bernadette một
kinh nguyện, rồi cuối cùng mới trao cho cô sứ điệp cầu nguyện: Con hãy
cầu nguyện, hãy cầu nguyện cho kẻ có tội được ơn trở lại.
Tại sao Đức Mẹ phải nhấn mạnh đến sự cầu nguyện? Chính vì tâm trí ta dễ
bị phân tán và xâm chiếm bởi nhiều nỗi khó khăn, lo lắng. Tất cả chúng
ta đều cần có những lúc cầm trí, sống trong thinh lặng, hầu dễ đặt mình
trước mặt Chúa để thờ lạy Ngài, và như kẻ ăn xin cùng khổ tỏ bày với
Ngài mọi nhu cầu của mình.
Chúng ta đừng tưởng đó là thái độ tự nhiên và dễ dàng. Cầu nguyện là một
việc rất khó, vì nó đòi hỏi ta phải biết tách mình ra khỏi những công
việc bận rộn hàng ngày, để tâm trí ta được Đức tin tự do hướng dẫn. Ta
hãy nghe lời nhắn nhủ khẩn thiết của Đức Mẹ Lộ Đức: Hãy cầu nguyện, hãy
cầu nguyện cho kẻ có tội được ơn trở lại.
2- Mời gọi sám hối.
Đức Trinh Nữ đã lập lại với Bernadette ba lần: ‘ Hãy sám hối, sám hối,
sám hối ’. Người dạy cô một việc đền tội tiêu biểu: hôn đất và uống nước
đục! tại sao vậy? Vì hãm mình đền tội là điều cần thiết để duy trì thế
quân bình nơi ta, và giúp ta có đủ khả năng cu toàn bổn phận. Hơn nữa,
trong việc đền tội, Chúa Ki tô sẽ giúp ta, sẽ tha tội cho ta, chính Ngài
đã thiết lập và đặt vào đời sống ta bí tích cáo giải. Thông qua linh mục
ta được ơn tha tội, được sức mạnh và lòng quảng đại, để thăng tiến, hầu
nên giống Chúa Ki tô, gương mẫu của ta, cách đặc biệt hơn.
Vì, hoàn tất một cuộc hành hương tốt đẹp, không phải chỉ lãnh Bí Tích
Cáo Giải, nhưng chính là phải quay về với Thiên Chúa, diệt trừ nơi ta
mọi trở ngại cho tình yêu của Ngài. Tóm lại, ta phải mô phỏng trong đời
sống của mình cái lý tưởng đã được đề ra, như chính Chúa Ki tô đã sống.
Tất cả những cố gắng ấy chính là điều mà chúng ta gọi là: lòng sám hối,
là ơn cải hoá, là ơn trở lại.
Ngày 25-02-1858 Đức Mẹ nói với Bernadette: ‘ Con hãy đến uống và rửa ở
suối này ’. Người chỉ cho cô tìm ra một giòng suối, mà hiện nay vẫn còn
tiếp tục chảy trong hang đá. Suối nước này ban đầu rất đục, nay bùn đã
lắng xuống, và trở thành suối nước trong suốt. Đó chính là dấu hiệu cho
sự sám hối của ta. Nó tượng trưng cho sự cố gắng mà chúng ta phải có, để
làm lắng đọng trong ta tất cả những gì là u ám, vẩn đục hầu nên giống
Chúa Ki tô. Và đó cũng là một trong những ơn huệ Lộ Đức.
3- Mời gọi rước kiệu và xây nhà nguyện.
“Con hãy nói với các linh mục xây nhà nguyện ở đây. Mẹ muốn người ta đến
đây rước kiệu”
Nhà nguyện là nơi dân Chúa tụ họp để nghe lời Chúa và cử hành nhiệm tích
Thánh Thể. Để đáp lại nguyện vọng của Đức Ma ri a mà ba đại giáo đường
đã lần lượt được xây cất ở đây:
- Vương cung Thánh Đường Đức Mẹ vô nhiễm.
- Vương cung Thánh Đường Đức Mẹ Mân Côi.
- Vương cung thánh Đường PIÔ X.
“Người ta sẽ xây nhà nguyện cho con, và xây rất lớn” , cha sở Lộ Đức
Peyramale đã nói với Bernadette như thế khi cô đến trình cha về lời yêu
cầu của Đức Mẹ, hẳn cha đã không ngờ rằng mình nói rất đúng.
Những Thánh đường này hằng ngày quy tụ từng đoàn người hành hương đến
viếng thăm, chầu Thánh Thể và rước kiệu. Chính tại nơi đây, Thánh lễ
cũng như các buổi rước kiệu Thánh Thể luôn được cử hành rất long trọng,
vì thế Lộ Đức thật xứng với danh hiệu “Thành phố của nhiệm tich Thánh
Thể”. Đức PIO X cũng coi Lộ Đức như “Ngai toà vinh hiển nhất của nhiệm
tích Thánh Thể trên thế giới”. Đó không phải là một thai độ phô trương,
mà là một nhu cầu:
- Làm sống động niềm tin của chúng ta vào Đức Ki tô khải hoàn, luôn hoạt
động trong Giáo Hội.
- Làm phát triển tình huynh đệ của chúng ta đối với mọi anh em.
- Đưa chúng ta đến tận suối nguồn trường sinh.
Như lời của Đức Cha Théas: “Nhiệm Tích Thánh Thể hoàn tất cuộc trở lại
của chúng ta.”
Ba lời mời gọi khẩn thiết trên chính là sứ điệp của Đức Mẹ Lộ Đức. Người
ta chỉ còn đợi Người ký tên xác nhận, và quả thật Người đã ký nhận sứ
điệp này cách tuyệt diệu vào ngày 25 tháng 3 năm 1858: “ TA, VÔ NHIỄM
NGUYÊN TỘI”
Danh hiệu này quá cao siêu, chưa một nhà thần học nào dạy Bernadette và
dĩ nhiên Bernadette càng không thể bịa ra được. Đức Ma ri a hiện diện
giữa chúng ta như một tạo vật cao đẹp nhất, Người thực thi kế hoạch của
Thiên Chúa cách trọn hảo nhất. Người thật xứng đáng được trọn làm Mẹ
Đấng Cứu Thế.
Cùng với hàng trăm, hàng triệu khách hành hương ở Lộ Đức, chúng ta hợp
lòng dâng lên Mẹ từ ái lợi ca tụng tuyệt mỹ, mở đầu cho kinh kính mừng:
‘ Kính mừng Ma ri a đầy ơn phúc, Đức Chúa trời ở cùng Bà ’, và đồng thời
cũng xin Mẹ thương ban trên chúng ta, những kẻ tội lỗi, ánh mắt nhân
hiền của Người, để khi nhìn ngắm Mẹ, chúng ta có đủ khả năng hoán cải
tâm hồn.
Trong thời gian hành hương tại Lộ Đức, chúng ta đắm mình trong bầu khí
thinh lặng và cầu nguyện này, để mong tìm được ở đó nguồn sống mới. Ta
hãy để ân sủng Lộ Đức thấm nhuần tận tâm can, vì nhờ đó, Đức Ma ri a sẽ
dẫn chúng ta đến với Chúa Giê su, con Cực Thánh của Mẹ. Amen. |