Lễ Ðức Maria Hồn Xác Lên Trời


Mẹ được Chúa cho hồn xác lên Trời
Sưu tầm

Ngày trọng đại vinh hiển nhất của Mẹ Ma-ri-a cũng như của con cái Mẹ là được Chúa cho hồn xác lên Trời. Ta hãy tìm hiểu:
- Lý do Mẹ được lên Trời.
- Địa vị của Mẹ Ma-ri-a.
- Nhân đức của Mẹ Ma-ri-a.
- Sứ mệnh của Mẹ Ma-ri-a.
- Vinh quang của Mẹ Ma-ri-a.
- Mẹ mời gọi con cái Mẹ cùng lên Trời.

1- Lý do Mẹ được Chúa cho hồn xác lên Trời.

Không phải mãi tới năm 1950, Đức Giáo hoàng Pio XII tuyên bố tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, Chúa mới cho hồn xác Mẹ lên Thiên Đàng, mà niềm tin Mẹ Ma-ri-a được Chúa cho hồn xác lên Trời đã khai mào ngay từ thời Giáo Hội sơ khai. Đó cũng là lý do các tác giả Tin Mừng không ai ghi nhận sau khi Chúa Giê-su phục sinh, Ngài đi gặp Đức Mẹ, vì các Tông Đồ muốn xác định : Mẹ Ma-ri-a luôn luôn ở bên cạnh Con Mẹ, không có một giây phút nào Mẹ-Con xa nhau, nghĩa là khi Chúa Giê-su lên Trời ngay trên thập giá (x Lc 23,43) thì Mẹ cũng đồng hành. Chúa Giê-su Phục Sinh chỉ đến với những người chưa được lên Trời với Ngài. Và như vậy, ngày Đức Pio XII tuyên bố tín điều Hồn Xác Mẹ Lên Trời là ngài muốn cổ võ cho toàn thể loài người phải biết cùng với Mẹ Ma-ri-a cám ơn Chúa, vì Ngài đã cho Mẹ chúng ta hồn xác được lên Trời trước là dấu bảo chứng chắc chắn Mẹ đã ở đâu thì Mẹ cũng muốn cho chúng ta là con cái Mẹ được ở chung.

Ngay từ thời Giáo Hội sơ khai, các tín hữu đã tin hồn xác Mẹ lên Trời, như lời thánh Phao-lô viết cho giáo đoàn Cô-rin-tô : “Như mọi người vì liên đới với A-đam phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô (A-đam mới) cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình, mở đường là Đức Ki-tô, rồi đến những người thuộc về Đức Ki-tô (chắc chắn Mẹ Ma-ri-a là ưu tiên) vào buổi quang lâm của Ngài” (1Cr 15,22-23 : Bài đọc II).

2- Địa vị của Mẹ Ma-ri-a.

Trong tiệc cưới Ca-na, Mẹ nói với loài người : “Hãy đến với Giê-su, Ngài bảo gì cứ làm theo!” (Ga 2,5) Lời này Mẹ lặp lại nguyên văn lời vua Pha-ra-ôn nói với toàn thể loài người khi lâm cảnh đói khổ chạy đến với vua xin mua lương thực, thì vua lại nói : “Hãy đến cùng Giu-se, ông bảo gì cứ làm theo!” (St 41,35) Mà Giu-se là tiền thân của Đức Giê-su. Vào thời điểm ấy, vua Pha-ra-ôn là người giàu có nhất trên thế gian, vì nhờ tài năng và sự khôn ngoan của Giu-se, vua ra lệnh cho ông Giu-se bung tiền mua lại tất cả thóc lúa của dân trong bảy năm được mùa, để rồi sẽ bán lại cho dân vào thời bảy năm mất mùa tiếp theo đó, và như vậy cả thế giới, ai cũng cần chạy đến với vua Pha-ra-ôn, ai cũng phải tôn trọng vua. Địa vị và danh dự của vua Pha-ra-ôn đã báo trước địa vị và danh dự của Đức Mẹ, vì nhờ Giê-su Con Mẹ khôn ngoan hơn Giu-se đã tích trữ tất cả ơn của Chúa trong các Bí tích Ngài lập, rồi trao cho Mẹ cũng như Hội Thánh quản lý, để tùy Mẹ và Hội Thánh phân phát cho những ai cần chạy đến xin lương thực bất tử (x Ga 19,25-27).

3- Nhân đức của Mẹ Ma-ri-a.

Có hai nhân đức đặc biệt của Mẹ, Mẹ muốn chúng ta dõi theo :

a- Đoán ý muốn của người khác để phục vụ. Trong Tin Mừng ghi lại hai lần Đức Mẹ phục vụ tất cả đều ghi đậm nét, chưa ai đến cậy nhờ Mẹ giúp, vì ngay khi Mẹ biết tình hình người ta đang cần gì, thì Mẹ mau mắn giúp đỡ họ ngay. Cụ thể:

- Mẹ nghe tin bà Ê-ly-sa-bét, chị họ đã gần 100 tuổi mà đang mang thai được 6 tháng, Mẹ hiểu ngay thân phận phụ nữ vào hoàn cảnh như thế rất cần người đến giúp đỡ, thế là Mẹ mau mắn lên đường… (x Lc 1,57t).

- Trong tiệc cưới Ca-na, Mẹ thấy người ta đang lo lắng đi tìm rượu đủ cho thực khách, vì chủ tiệc không trù liệu đủ Thế là Mẹ đứng ngay lên đến nói với Giê-su Con Mẹ : “Họ hết rượu rồi”, và Đức Giê-su đã làm cho họ dư rượu mới ngon hơn (x Ga 2,1-11).

b- Việc cầu nguyện của Mẹ đứng hàng đầu, và liên kết các lời trong Sách Thánh thành bài ca tuyệt vời chúc tụng Chúa. Mẫu cầu nguyện này Hội Thánh đã muốn cho con cái Mẹ noi gương bắt chước như lời Hội Thánh dạy : “Việc cầu nguyện phải đi đôi với việc đọc Thánh Kinh” (Hiến Chế Mạc Khải số 25) :

Khi Mẹ lên đường tới nhà nhà bà Ê-ly-sa-bét, ai cũng nghĩ là tác giả Tin Mừng phải ghi lại rất nhiều việc Đức Mẹ giúp chị mình, nhưng Lu-ca không cho ai thấy Mẹ làm gì, chỉ thấy Mẹ cầu nguyện và làm mọi người rộn lên niềm vui, kể cả Gio-an còn trong bụng mẹ cũng nhảy mừng!

4- Sứ mệnh của Mẹ Ma-ri-a.

a- Đời phục vụ của Mẹ diễn tả và báo trước chương trình Thiên Chúa cứu độ loài người.

Đọc lại Tin Mừng Lu-ca, ai cũng nghĩ là Mẹ cần phải ở lại nhà chị họ để phục vụ khi người chị sinh con. Thế mà, tác giả Lu-ca cho biết : Ma-ri-a bắt đầu đến nhà bà Ê-ly-sa-bét, bà đã có thai được 6 tháng, phải ngoài 3 tháng nữa, bà mới sinh con. Vậy mà Mẹ Ma-ri-a chỉ đến nhà người chị có 3 tháng rồi trở về quê. Khi Mẹ về tới nhà thì Gio-an mới sinh ra ! (x Lc 1,56) Thánh sử Lu-ca có ý ghi như thế để xác quyết rằng : Mẹ đã báo trước chương trình cứu độ loài người của Con Mẹ : sau khi Con Mẹ phục vụ ba năm, bị giết và an táng trong mồ ba ngày, rồi phục sinh về Trời, lúc ấy các Tông Đồ ra đi rao giảng, và Hội Thánh được sinh ra.

b- Mẹ cộng tác với Chúa để hoàn tất cuộc sáng tạo loài người.

Tác giả Lu-ca và Gio-an ghi lại 6 lần Mẹ Ma-ri-a nói :

- Mẹ thưa với thiên thần trong ngày truyền tin : “Việc đó xảy đến thế nào vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1,34).

- Mẹ đáp lại sau khi được sứ thần giải thích nguyên nhân Mẹ sinh Con Thiên Chúa : “Xin Chúa làm cho tôi điều Chúa nói” (Lc 1,38).

- Mẹ cầu nguyện dài nhất tại nhà chị họ Ê-ly-sa-bét (Lc 1,46-55).

- Mẹ trách Đức Giê-su trốn cha mẹ ở lại Đền Thờ dạy giáo lý : “Sao con làm thế, đây cha mẹ đã vất vả tìm con!” (Lc 2,48).

- Trong tiệc cưới Ca-na, Mẹ nói với Đức Giê-su : “Nhà này hết rượu” (Ga 2,3).

- Mẹ nói với loài người : “Chúa bảo gì con cứ làm theo!” (Ga 2,5)

Thuở ban đầu Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, Ngài nói 6 lần trong sáu ngày, vạn vật xuất hiện rất tốt đẹp. Ta lưu ý Thiên Chúa nói lần thứ 6 trong ngày thứ sáu : “Chúng ta hãy dựng nên loài người giống Chúng Ta” (St 1,26-27). Nhưng thực ra lúc ấy loài người chỉ là một sinh vật (x 1Cr 15,45 – bản dịch CGKPV). Loài người chỉ vượt kiếp sinh vật trở nên giống Thiên Chúa khi biết nghe và thực hành lời Mẹ Ma-ri-a dặn : “Giê-su bảo gì cứ làm theo!” (Ga 2,5)

5- Vinh quang của Mẹ.

Sách Khải huyền diễn tả vinh quang của Mẹ : “Một người phụ nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1) :

- “Mình khoác áo mặt trời” : Mặt trời ám chỉ Thiên Chúa (x Lc 1,78).

- “Trăng sao” : Người Do-thái hiểu là các thần minh ở trên trời, vị thần cao cả nhất trong các thần chính là mặt trăng.

Vậy người phụ nữ là Đức Trinh Nữ Ma-ri-a được vinh quang của Thiên Chúa bao bọc (mặc áo mặt trời), vị thần cao cả trên trời Chúa đặt làm bệ kê chân Mẹ, các thần minh khác diễn tả vinh quang của Mẹ (đầu đội triều thiên 12 ngôi sao).

Hình ảnh đó còn có ý diễn tả toàn thể Hội Thánh (12 ngôi sao) đều vây quanh Mẹ, vinh quang các phần tử trong Hội Thánh là nhận vinh quang Chúa đã ban cho Đức Mẹ. Nói cách khác, vinh quang của Đức Ma-ri-a là cộng lại vinh quang của toàn thể Hội Thánh.

6- Mẹ mời gọi con cái Mẹ cùng lên Trời.

Người ta hỏi Chúa Giê-su : “Nước Trời ở đâu?” Chúa trả lời ngay : “Nước Trời ở giữa các người” (Lc 17,21).

Để hiểu Nước Trời ở giữa loài người, tác giả Lu-ca diễn tả 3 lần Chúa Giê-su lên Trời :

- Ngài lên Trời ngay khi còn treo trên thập giá ở đồi Sọ, như Ngài nói với tên trộm lành : “Hôm nay, anh ở trên Thiên Đàng với Ta” (Lc 23,43).

- Chúa lên Trời trong đêm Chúa nhật Phục Sinh, tại Bê-ta-ni-a. Thánh sử Lu-ca ghi : “Chúa Giê-su dẫn môn đệ đến Bê-ta-ni-a, đoạn Ngài giơ tay chúc lành cho họ. Và xảy ra là đang khi Ngài chúc lành cho họ, thì Ngài đã từ biệt họ và được nhắc lên Trời” (Lc 24,50-51).

- Chúa lên Trời vào ngày thứ năm tại núi Cây Dầu. Tác giả Lu-ca ghi : “Sau cuộc thương khó, Chúa Giê-su đã cho môn đệ thấy mình vẫn sống, với nhiều tang chứng đành rành. Suốt 40 ngày (tức là ngày thứ năm sau Chúa nhật Phục Sinh) Ngài đã hiện ra với họ và nói về Nước Thiên Chúa. Rồi Ngài lên Trời xa cách các môn đệ … Bấy giờ các môn đệ trở về Giê-ru-sa-lem từ núi Cây Dầu, gần bên Giê-ru-sa-lem” (Cv 1,3.11-12)

Lên Trời lần thứ I tại đồi Sọ chính là lúc Chúa đang dâng lễ ; lên Trời lần thứ II vào đêm Chúa nhật, thời gian Giáo Hội sơ khai dâng lễ, tại địa điểm Bê-ta-ni-a, nhắc đến chị Ma-ri-a người mẫu mực nghe Lời Chúa (x Lc 10,38-42) ; lên Trời lần thứ III vào ngày thứ năm, nhằm ngày Chúa Giê-su lập Bí tích Thánh Thể, địa điểm ở núi Cây Dầu, nơi Chúa Giê-su cầu nguyện bắt đầu Hy-tế của Ngài (x Lc 22,39-46)

Vậy Thiên Đàng ở giữa loài người, chính là Thánh lễ Hội Thánh cử hành mà thánh sử Lu-ca đã nhấn mạnh ba lần, qua cách viết Chúa Giê-su lên Trời ba lần.

Tại tiệc cưới Ca-na báo trước hình ảnh tiệc Cưới Con Chiên, Hy-tế Chúa Giê-su, Đức Ma-ri-a căn dặn loài người : “Giê-su bảo gì, cứ làm theo!” (Ga 2,5) Cụ thể làm theo lời Chúa Giê-su dạy là “vác Thánh giá hằng ngày theo Ta”, là Mẹ muốn chúng ta đi dự lễ mỗi ngày để cùng với Mẹ bước chân vào Nước Trời.

Cầu nguyện : “Hoàng hậu – Maria - đứng bên hữu Đức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng lộng lẫy. Lòng hoan hỷ đoàn người tiến bước, vẻ tưng bừng vào tận hoàng cung” (Tv 45/44,10.16 : Đáp ca).

THUỘC LÒNG.

Mẹ Ma-ri-a dạy loài người chỉ có một câu : “Giê-su bảo gì cứ làm theo!” (Ga 2,5).

Trang nhà

Trang  Mẹ Maria