Đã tới ngày một bà mẹ sinh con đầu lòng phải lên Đền Thờ, theo luật Maisen, để thi hành thủ tục thanh tẩy và dâng con mình cho Chúa. Đức Trinh Nữ Rất Thánh hoàn toàn không buộc phải tuân giữ qui luật đó. Mẹ là Đấng hoàn toàn thanh sạch. Nhưng vì đức khiêm nhượng luôn luôn hạ htấp Mẹ xuống tới bụi đất, nên Mẹ tình nguyện tùng phục lề luật. Còn Con của Mẹ lại chẳng vượt cao trên lề luật ư? Nhưng Mẹ nhìn thấy rõ thánh ý chủa Con Mẹ cũng muốn dâng mình cho Cha hằng hữu làm một lễ vật sống động, nên Đôi Bạn Thánh định ngày lên Giêrusalem.
Mẹ Maria và Thánh Giuse từ giã phụ nữ đạo hạnh đã cho Thánh Gia trú nhờ, và tặng cho bà một phần số vàng dành để giúp người nghèo. Bà ta được đầy những chúc phúc từ trời cao. Trước khi lên đường, Đức Nữ Trinh và Thánh Cả đã ra thăm lại hang đá một lần cuối cùng. Mẹ đã sấp mình xuống tận đất tôn kính nơi được chúc phúc đó, nơi từng chứng kiến biết bao việc lạ lùng. Mẹ xin Thánh Giuse ban phép lành và cho phép Mẹ được đi chân không lên Đền Thánh; nhưng Thánh Cả không cho Mẹ được khổ chế quá mức như vậy. Mẹ rước lấy Chúa Hài Nhi từ tay Thánh Giuse, cẩn thận quấn khăn ủ ấm cho Chúa và cầu xin Chúa gìn giữ hang thánh ấy để các giáo hữu sau này đến kính viếng. Đôi Bạn Thánh xin Chúa ban phép lành. Chúa giơ tay rõ ràng chúc phúc cho cha mẹ Ngài.
Belem cách Giêrusalem hai dặm. Trên con đường đó, bấy giờ diễn ra một cuộc rước vĩ đại chưa từng có bao giờ. Mười ngàn thiên thần dự vào các mầu nhiệm ở hang đá cùng với rất đông thiên thần từ trời đem danh hiệu Giêsu xuống trước đó, hiện ra hình người tháp tùng Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse. Ánh sáng của họ giãi ra che kín ánh mặt trời. Họ vừa đi vừa hát lên nhhiều khúc tân ca chúc mừng Chúa Cứu Thế đi dâng mình trong Đền Thờ.
Khí hậu rất giá rét. Chúa Giêsu là người thật, nên run rẩy và khóc trên tay Mẹ Maria đang như chết đi vì thương cảm. Mẹ ra uy với tiết lạnh mùa đông đang hành hạ Đấng Cứu Chuộc, truyền cho chúng phải tôn trọng Ngài, nhưng cứ hắt khí lạnh vào Mẹ. Bỗng dưng, không khí rét mướt đổi lên một bầu khí quang đãng ấm áp quanh Chúa Giêsu. Nhất là Mẹ ra uy với tội lỗi, vì nó đã tạo ra hết mọi tai nạn làm thế gian phải đau khổ. Mẹ quở mắng tội lỗi: "Cái quái vật khủng khiếp kia, lúc nào cũng phải loạn chống Thiên Chúa, lúc nào cũn glà kẻ thù của loài người! Mày đã làm cho nloài người nên tồi tàn, làm họ mất hạnh phúc đời đời! Hời loài người hay chết, và yêu thhích sự dối trá và hư ảo cho đến bao giờ? Thôi, đừng bội bạc với Chúa Tối Cao nữa! Đừng tàn ác với chính mình nữa! Chớ coi thường những lời đe dọa của Cha và những chỉ bảo của Mẹ muốn chịu hết mọi đau khổ từ Adong sa ngã, để cứu rỗi các con".
Trong khi Thánh Gia còn trên đường, thượng tế Simeon và nữ tiên tri Anna được ơn soi sáng cho biết Thánh Gia sắp tới Đền Thờ. Hai vị đó sai viên qủn lý Đền Thời đi đón và đưa Thánh Gia vào trọ tại nhà ông ta. Chiều hôm ấy, Thánh Giuse kín đáo mang những lễ vật của Đạo Sĩ vào Đền Thờ. Khi trở về, Ngài mua mấy con chim gáy dành cho lễ nghi hôm sau. Chính Mẹ Maria đã muốn như vậy. Đêm hôm đó, Mẹ thức suốt trong cuộc đàm đạo với trời cao: "Lạy Cha của Chúa con, con sắp sửa dâng Chúa của con cho Cha làm Hy Lễ, để xin Cha thương đến loài người. Khi Cha ban Người cho con, Người là Thiên Chúa. Lúc con ra khỏi Đền Thờ, con nghèo nàn, nhưng bây giờ trở lại Đền Thờ, con nên giầu sang vì có Chúa của con. Con ca tụng Chúa đời đời vì Chúa đã xử đại lượng với con".
Sáng hôm sau, Thánh Gia lên Đền Thờ, cùng với đoàn tháp tùng theo lên từ Giêrusalem. Mẹ Maria quỳ xuống nơi các phụ nữ quen đứng khi đến chịu thánh tẩy và dâng con mình. Chúa Ba Ngôi hiện ra với Mẹ trong trí. Mẹ nghe Chúa nói những lời này: "Đây là con rất yêu dấu của Ta, Ta chỉ hài lòng nơi Ngài". Thánh Giuse, một người bạn hạnh phúc nhất trong nam giới, cảm thấy một ơn thúc bách mới, Chúa Thánh Thần ban xuống những ánh sáng và hân hoan đầy ngập lòng Ngài.
Đêm trước, thánh Simêon và thánh nữ tiên tri Anna cũng tiếp nhận được những mặc khải mới và chính sác về những mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc dưới ơn soi sáng của Thiên Chúa, lúc đó, hai vị vào Đền Thờ, kinh ngạc nhìn thấy Chúa Hài Nhi và Mẹ Ngài tỏa rực ánh vinh quang, nhưng hai ánh sáng ấy không bằng nhau: Ánh của Con khác hẳn Ánh của Mẹ. Thấm nhuần một an ủi từ trời ban, hai vị đến gặp Chúa Hài Nhi và Mẹ. Thượng tế Simêon xin Mẹ cho ẵm Chúa. Ông ngước mắt lên trời, bồng Chúa Hài Nhi cao lên dâng cho Cha Hằng Hữu; ông nguyện xin: "Giời đây, lạy Chúa, xin cho tôi tớ Chúa được chết bằng an, vì mắt con đã được nhìn thấy Đấng Cứu Chuộc mà Chúa đã hứa ban cho chúng con, Đấng Cứu Chuộc mà Chúa định tỏ cho mọi dân tộc, để làm ánh sáng soi cho các dân ngoại và vinh hạnh cho Isael dân riêng Chúa Trọn". Ông chúc lành cho Mẹ Maria và Thánh Giuse. Đôi bạn Thánh tán tụng Thánh Linh đã ban ơn lạ cho ông. Ông lại nói với Mẹ: "Đức Nữ nên biết rằng Người con của Đức Nữ đã được tôn lên để người Isael một số lớn phải điêu đứng, một số lớn được phục hồi, Ngài sẽ là biểu hiệu gây mâu thuẫn. Và tâm hồn Đức Nữ sẽ bị một lưỡi gươm đau khổ xuyên qua.
Lúc ông nói những lời ấy, Hài Nhi Giêsu cúi đầu tỏ dấu thuận vâng Thánh Ý Cha Ngài, và Mẹ Maria cảm thấy trong lòng lưỡi gươm hành hạ Con Chí Thánh mình. Từ đó, cứ hễ nhìn thấy Con là Lòng Mẹ lại nhức nhối thêm một nỗi cảm thương không bờ bến, không lúc nào ngừng. Chúa lại ban ơn cho Thánh Cả Giuse để Ngài biết lời tiên tri ấy, nhưng không rõ ràng bằng Mẹ Maria.Sau cùng, bà tiên tri Anna cũng được Thánh Linh soi sáng, nên nhận ra Hài Nhi Giêsu là Ngôi Lời Nhập Thể làm Người. Bà nói lên nhiều mầu nhiệm về ơn Cứu Chuộc. Cho tất cả những ai đợi chờ Ngài đến được nghe.
Khi mọi nghi lễ đã xong, Đức Trinh Nữ hôn tay thượng tế cũng như Bà Anna là bà giáo cũ của Mẹ, và xin hai vị chúc lành. Rồi Mẹ trở về nhà trọ cũng với đoàn tháp tùng là mười bốn ngàn thiên thần trước. Trong những ngày lưu lại Giêrusalem, Mẹ cũng đã đến đàm đạo với thượng tế Simêon và nữ tiên tri Anna nhiều lần. Tuy Mẹ nói ít, nhưng lời nào cũng sâu ý nhiệm mầu, khiến hai vị vừa bỡ ngỡ thán phục, vừa được an ủi rất nhiều. Những cuộc đàm đạo ấy, đã thêm ủy lại cho hai vị, khi họ từ trần ít lâu sau.
Lời Mẹ Huấn Dụ
Hỡi con, một trong những lỗi khổ thống gây ra tai hoạ hoặc giảm bớt hạnh phúc cho các linh hồn, đó là thực hành nhân đức một cách trễ nải ươn lười. Chỉ vì tật nguội lạnh hèn nhát đó mà có ít người tới được chỗ thân ái hoàn toàn với Chúa, tình thân ái mà người ta chỉ nối kết được nhờ tình yêu nhiệt liệt. Tình yêu nhiệt liệt là tình yêu tương tự như nước sôi nhờ sức lửa. Nó nâng cao linh hồn lên trên chính mình và trên tất cả mọi thụ tạo. Lúc đó, càng yêu mến linh hồn càng cháy lên, càng không no thoả trong việc làm đẹp lòng Thiên Chúa, và hao tổn thân mình để phụng sự Ngài cho tới khi biến hóa hẳn vào Ngài.
Nhưng thương thay! Trái tim con người nhu nhược biết bao, không mấy chịu được những gì ngược với những su hướng trần tục của nó! Nó chống lại đau khổ và nhận chịu một cách bất nhẫn biết chừng nào! Nó quên mất rằng Thầy Chí Thánh của nó đã là người đầu tiên chịu khổ, Ngài đã tôn trọng và thánh hoá đau khổ trong chính mình Ngài! Ngài mà còn chịu đau khổ như vậy con người coi đau khổ là cái gớm ghét, lại chẳng phải sấu hổ lắm ư?
Hỡi con, con không thể theo Chúa Giêsu được, nếu con không ôm lấy thánh giá với Ngài và không làm vui lòng Ngài trong thánh giá ấy; cho rằng các thụ tạo đã bỏ rơi con, cho rằng các chước cám dỗ xông đánh con, cho rằng các đau khổ chết chóc vây bọc con đi nữa, cũng chẳng có gì làm con phải xao xuyến thất vọng. Con hãy cứ tin tưởng vào ơn Chúa phù trợ và vào tình Mẹ săn sóc cho con. Con hãy kêu lên: Chúa nâng đỡ tôi, tôi còn nao núng nỗi gì? Tôi còn có một người Mẹ bao bọc tôi luôn luôn nữa mà;
Như vậy con sẽ duy trì được sự bằng an tâm hồn, như Mẹ đã duy trì khi lời tiên tri của thượng tế Simêon xuyên thấu tâm hồn Mẹ. |