Giây phút "truyền tin" bắt đầu một kỷ nguyên mới. Giây phúc "truyền tin"
thật là quan trong đối với Thánh mẫu học. Từ giây phúc thưa hai tiếng
"xin vâng", Đức Mẹ Maria trở thành một tạo vật đặc biệt, trở nên Mẹ
Thiên Chúa, Mẹ Đấng Cứu thế, Mẹ loài người, Mẹ Giáo Hội, và mẹ từng tín
hữu. Vì thế những yêu sách của "phúc truyền tin" cũng thực lớn lao vè
phía Chúa và về phía Đức Mẹ. Ta xem Công Đồng Vaticanô II nói gì về
những yêu sách ấy.
Về phía Chúa:
1- Trước hết, Công Đồng quả quyết: Đức Mẹ được Chúa làm cho nên phong
phúc về mọi ơn, xứng hợp với thiên chức "Mẹ Chúa". Như thế là một cách
gián tiếp Công Đồng nhắc lại nguyên tắc thường gọi trong giáo lý là
"xứng tiện: convenientiae". Nghĩa là theo các nhà Thần học thì những gì
nên làm, và có thể làm thì Chúa đã làm: decuit, potuit ergo fecit.
Nguyên tắc này thường được áp dụng trong Thánh mẫu học.
Không phải theo cảm tình hay sở thích cá nhân, mà chính là dựa vào hoàn
cảnh cụ thể của phút "truyền tin" mà Công Đồng đã áp dụng nguyên tắc
này. Trong giờ phút "truyền tin", Đức Mẹ trở nên Mẹ Chúa Cứu Thế. Đó là
điều Thánh kinh, Lưu truyền và Giáo hội vẫn dạy. Dựa vào sự việc đó, và
nhờ ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, Giáo hội đã muốn áp dụng nguyên tắc
"xứng tiện" này nơi chính Thiên Chúa đối với Đức Mẹ.
2- Cũng theo nguyên tắc đó Công Đồng quyết thêm: Vì muốn cho Đức Maria
trở nên Mẹ Chúa Cứu Thế, Mẹ Thiên Chúa, nên Chúa phải làm cho Đức Mẹ trở
thành rất thánh, không vướng tì ố tội lỗi. Nói như thế là Công Đồng dựa
vào thế giá các Giáo phụ, để chỉ sự thánh thiện tích cực của Đức Mẹ - Về
phương diện tiêu cực: Đức Mẹ không vướng một chút tì ố tội lỗi - Về
phương diện tích cực: Đức Mẹ là đấng rất thánh, được Chúa Thánh thần tác
tạo như một thụ sinh mới. Đấy là những điểm các thánh Giáo phụ thường
nói về Đức Mẹ, và Công Đồng nhận những quan niệm đó như của chính Công
Đồng.
3- Công Đồng còn nói thêm rằng: Ngay từ phút đầu vừa thụ thai, Đức Mẹ
được trang điểm bằng mọi huy hoàng của sự thánh thiện đặc biệt, và vì
thế Ngài đã trở thành xứng đáng để chịu thai Ngôi Lời, mà không bị một
mảy may tội lỗi hay lòng ích kỷ chi phối. Công Đồng không dùng kiểu nói
của Đức Giáo Hoàng Pio IX khi tuyên bố tín điều Đưc Mẹ Vô Nhiễm Nguyên
Tội, vì Công Đồng có ý trưng lại quan niệm của các thánh Giáo phụ về sự
thánh thiện và sự không vương vấn tội lỗi nơi Đức Mẹ. Tuy thế, trong
triệt 5 của sô 59 Hiến Chế Lumen Gentium, Công Đồng có nhắc đến câu định
tín vừa kể trên:
4- Để minh chứng việc Đức Mẹ thánh thiện, Công Đồng nói: theo lệnh của
Chúa, Thiên thần đã chào Mẹ là "Đấng đầy ơn phúc" (Lc. 1:28). Ở đây Công
Đồng cũng không muốn đưa ra một cách cắt nghĩa nào về câu "Đấng đầy ơn
phúc", nhưng vẫn còn để cho các nhà chú giải tự do tìm hiểu theo ngôn
ngữ học. Nhưng Công Đồng muốn nói Chúa phải làm cho Đức Mẹ đầy ơn phúc,
đầy sự thánh thiện và không hề vương vấn bất cứ một thứ tội lỗi nào, để
xứng đáng làm Mẹ Ngôi Hai giáng trần. Và nói nhứ thế là dựa vào Thánh
kinh, vào Lưu truyền và vào đạo lý của Giáo hội từ xưa tới nay.
Về phía Đức Mẹ:
Về phía Đức Mẹ, phút "truyền tin" cũng đem lại những yêu sách đặc biệt.
1- Công Đồng tóm tắc bằng một câu vắn vỏi, nhưng rất quan trọng khi nói:
Công tác của Đức Mẹ là công tác của một "tới nữ" của Thiên Chúa. Đức Mẹ
đã tận hiến cho Ngôi Lời là Con của Đức Mẹ, ngay khi Ngôi Lời nhận láy
bản tính nhân loại trong lòng Đức Mẹ, để nhờ các mầu nhiệm của thân xác
đó, Chúa cứu vãn con người tội lỗi (L.G. 55). Công Đồng muốn nêu cao giá
trị cứu độ của Đức Mẹ trong giờ phút truyền tin, và đặc biệt Đức Mẹ đã
cộng tác một cách tích cực vào sứ vụ công khai của Chúa Cứu Thế. Và quả
quyết như thế vì đã có lời Thánh kinh kể lại: Đức Mẹ trả lời cho Thiên
sứ: "Này tôi là nữ tớ Chúa, xin thi hành nơi tôi như lời Ngài đã nói"
(Lc 1:38).
2- Việc tình nguyện tận hiến phục vụ mầu nhiệm cứu độ như thế, không
phải là một việc riêng rẽ, nhưng đi liền với thiên chức "Mẹ Chúa Cứu
Thế" với việc Đức Mẹ được đầy ơn phúc, và việc Đức Mẹ được Chúa ban cho
mọi ơn một cách nhưng không. Nghĩa là Đức Mẹ đã tích cực cộng tác với
Chúa Con để cứu nhân loại trong lòng tin và vâng phục Chúa Con, và cùng
với Chúa Con, nhờ ơn Thiên Chúa toàn năng. Đây là nguyên văn Công Đồng:
Nhứ thế Đức Mẹ Maria, một nữ tử của Adam, khi ưng thuận lời Chúa truyền,
đã trở thành Mẹ Chúa Giêsu, và với tất cả tâm hồn, chứ không vì một mảy
may ẩn ý tội lỗi. Đức Mẹ đã nhận lấy thánh ý cứu độ của Thiên Chúa. Và
như một nữ tớ của Chúa, Đức Mẹ tận hiến hoàn toàn cho Chúa Con và công
việc của Ngài để phục vụ mầu nhiệm cứu độ, dưới quyền điều kiển của Chúa
con và cùng với Chúa Con, nhờ ơn Thiên Chúa toàn nằng (L.G. 56). Trên
đây là những quả quyết quan trọng nhất của Công Đồng Vaticanô II về Đức
Mẹ.
3- Khi quả quyết về mối tương quan giữ Đức Mẹ và công việc cứu độ trong
giờ phúc "truyền tin". Công Đồng không những chú ý đến điều các nhà chú
giải Thánh kinh đã tìm thấy nơi Phúc âm thánh Luca, mà nhất là chú ý đén
điều các thánh Giáo phụ đã dạy. Các ngài đã phân tách hai điểm tích cực
và tiêu cực trong việc này. Tiêu cực: theo các thánh Giáo phụ thì Đức Mẹ
không phải chỉ là một dụng cụ thụ động ở nơi tay Chúa. Tích cực: nhưng
với đầy lòng tin và vâng phục, Đức Mẹ đã công tác thực sự trong công
việc cứu độ nhân loại. Hai điểm tiêu cực và tích cực này đã được các
thánh Giáo phụ đề cập và quảng diễn ngay từ thời thánh Irênêô (202).
Việc quảng diễn đã được tóm lại trong 4 điểm này:
a/ Khi vâng lời như thế, Đức Mẹ trở nên căn nguyên cứu độ cho chính
Ngài, và cho tất cả nhân loại (Adv. Haer. III, 22,4).
b/ Vì thế việc bà Evà đã thắt buộc lại vì không vâng phục thì Đức Mẹ đã
thóa cởi ra vì vâng phục. Việc bà Evà thắt buộc lại vì thiếu lòng tin,
thì Đức Mẹ đã cởi ra vì lòng tin. Evà bất tuân lệnh Chúa cấm ăn trái
biết lành biết dữ vì theo lời dối trá của ma quỉ, còn Đức Mẹ Maria thì
trái lại, Ngài đã vâng lời thiên thần báo tin về chương trình cứu độ của
Chúa, và Đức mẹ vâng theo thánh ý Chúa một cách ngoan ngoãn như một nữ
tới hay vâng phục.
c/ Cũng như bà Evà, Đức Mẹ Maria được gọi là Mẹ những kẻ sống. Dĩ nhiên
chúng ta không bàn đến một chức vụ là mẹ thể lý như bà Evà, mà đề cập
đến một chức vụ làm mẹ thiêng liêng của những kẻ được sống và sống đời
đời, nhờ Chúa Giêsu con Đức Mẹ.
d/ Chết là do Evà thí sống là do Đức Mẹ Maria. Evà đem lại cho nhân loại
cái chết, một cái chét thiêng liêng, tức là tội lỗi, làm cho mất ơn
nghĩa với Chúa. Cái chết này lưu truyền cho con cháu. Ngoài cái chết
thiêng liêng lại có cả cái chết thể lý. Chết thể lý là hình phạt của tôi
Adam và Evà. Đức Mẹ Maria làm cho người ta được hai cái sống: Một cái
sống thiêng liêng, nghĩa là được lại ơn nghĩa với Chúa, nhờ sự hy sinh
đền tội của Chúa Giêsu, Con của Đức Mẹ, Ngài là nguồn mọi sự thánh thiện
Đức Mẹ cũng đem lại cho nhân loại một cái sống thể lý, nghĩa là nhờ Chúa
Giêsu, Con thực của Đức Mẹ, Đấng đã chịu chết và sống lại, thì xác loài
người, sau khi chết và tan rã, sẽ được sống lại, và sống đời đời.
Kết luận:
Mầu nhiệm cứu độ trong giây phúc "truyền tin" có thể tóm lược bằng những
lời đầy ý nghĩa của Đức Giáo Hoàng VI đọc trong ngày 25 tháng 3 năm
1973:
"Trong mầu nhiệm 'truyền tin' chúng ta chào mừng việc Đức Kitô giáng
trần. Đây là trung tâm điểm của mầu nhiệm Nhập Thể. Là một biến cố đặc
biệt, mới lạ và đẹp đẽ nhất của nhân loại. Khi Ngôi Hai nhập thể làm
người, Ngài đã mặc khải cho ta mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa, và đổ xuống
trên nhân loại một đời sống mới, đời sống siêu nhiên, và làm cho nhân
loại được thông công sự sống của chính Thiên Chúa. trong giờ phút truyền
tin, Đức Kitô cũng để lại những điều kiện căn bản về việc cứu đô, về
nước Chúa, một nước băt dầu với Đức Kitô trong thời gian, à sẽ kéo dài
qua mọi thời gian, để kết thúc trong đời đời vô tận.
"Hạnh phúc đó, tương lai đó, và ơn gọi đó đã mở ra cho chúng ta trong
giờ phút truyền tin. Và Mẹ Maria, một đấng rất khiêm nhường trong sạch,
với một lòng vâng phục đầy yêu mến, và nhờ ơn Chúa Thánh Thần, đã nhận
trở thành Mẹ Đồng trinh của Đấng vừa là Chúa vừa là người, tức là Chúa
Giêsu Kitô. Đấy là trung tâm điểm của các mầu nhiệm, của chân lý, và của
thực tại..." |