CHÌA KHÓA MỞ CÁNH CỬA HẠNH PHÚC CỦA HÔN NHÂN
Tâm Lý Hôn Nhân
Trần Mỹ Duyệt
Hôn nhân là một đời sống, một dòng chảy. Nó theo ta mọi ngày trong suốt cuộc đời. Nó được dệt bằng một chuỗi dài nối tiếp giữa những vui buồn, sung sướng, vất vả, hạnh phúc và thử thách. Nó không phải là một cái gì mà con người có thể mua bán, đổi chác, hoặc sở hữu. Nó luôn luôn ở trong thể động, và tùy thuộc vào người sống với những giây phút ấy của cuộc đời họ.
Bằng một cái nhìn tâm lý, hôn nhân là một nối kết, một sự hòa nhập, và tan biến giữa hai con người, mà hai người ấy lại đến từ hai thế giới hoàn toàn khác nhau. Tiến Sỹ John Gray đã trình bày hai thế giới ấy trong tác phẩm nổi tiếng của ông, nhan đề: “Men are from Mars, Women are from Venus (Đàn ông đến từ Hỏa Tinh, đàn bà đến từ Kim Tinh). Khoảng cách giữa hai hành tinh này là 74,4 triệu miles tương đương với 119.740.000 Km. Nếu đem so sánh khoảng cách giữa chúng với những khác biệt giữa người đàn ông và người đàn bà thì không chỉ trong cấu trúc cơ thể, mà còn tiềm ẩn qua những khác nhau về di truyền, giáo dục, văn hóa, kiến thức, tâm lý, xã hội và tâm linh nữa. Tóm lại, đây là hai thế giới hoàn toàn riêng biệt, khác nhau và chỉ có thể đến với nhau được bằng con đường tình yêu.
Một điểm khác nữa khiến cho hạnh phúc hôn nhân luôn gặp thử thách, đó là trong hôn nhân không có thứ hạnh phúc một mình. Chồng không thể chỉ nghĩ đến hạnh phúc của chồng, và vợ cũng không thể nghĩ đến hạnh phúc của vợ. Hạnh phúc là hạnh phúc của cả hai. Điều này không chỉ là cảm nghiệm từ tâm lý, mà nó đã được tìm thấy trong Thánh Kinh: “Bởi thế người nam sẽ từ bỏ cha mẹ mà luyến ái với vợ, và cả hai trở nên một.” (Khởi Nguyên 2:24) Sự liên kết nên một sẽ làm cho tình yêu và hạnh phúc hôn nhân trở thành viên mãn, nhưng nó cũng là điều kiện khó lòng thực hiện.
Thống kê năm 2021 tại Hoa Kỳ, 6 trong số 1.000 người sống đời hôn nhân, mặc dù con số này có phần giảm tính từ năm 1990, khi đó mực độ là 9,8 trong số 1.000 người sống đời hôn nhân. [1] Trong một thống kê khác thì mỗi năm riêng tại Hoa Kỳ có 2,3 triệu đôi tình nhân trao lời hẹn ước, và trung bình mỗi ngày có khoảng 6.200 đám cưới. [2] Chỉ tiếc rằng, một nửa trong số những đôi tân hôn ấy bằng cách này hay cách khác đã không đi trọn hành trình với nhau. Có cặp chỉ mới ba tháng, sáu tháng, một năm, năm năm, mười năm, cũng có cặp đã đi với nhau được ba chục, bốn chục và năm chục năm rồi lại chia tay. Số còn lại hàng ngày vẫn trải qua những cuộc cãi vã, bất hòa, và gây đau khổ cho nhau, “vui ít, buồn nhiều!”
Nếu hôn nhân ngày nay theo nhận xét tiêu cực của một số người bi quan “là mồ chôn hạnh phúc”, thì tại sao Thượng Đế lại thiết lập đời sống hôn nhân, và trao cho nó trách nhiệm bảo tồn nòi giống, xây dựng một xã hội mà trong đó con người được sống trong tình yêu và cùng nhau vui hưởng hạnh phúc? Câu trả lời là tại do con người. Vì tự ái, vì muốn sống theo những dục vọng và đam mê bất chính nên đã tự phá hủy nền tảng gia đình, kiếm tìm và xây dựng một hình ảnh hôn nhân theo ý mình, theo với những gì mình muốn. Những nguyên tắc sau đây, do đó, được nêu lên như những ứng dụng thực hành nhằm bồi bổ và làm sống lại tương quan lành mạnh hầu xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Chúng không phải là chiếc đũa thần được đặt vào tay những kẻ lười biếng, ỷ lại, và thiếu nỗ lực cố gắng. Đây là những kinh nghiệm thực hành được trao đổi, chia sẻ và đúc kết từ những khóa học, những buổi thuyết trình, hồi tâm và hội thảo trong lãnh vực tình yêu, hôn nhân, gia đình. Và chúng bao gồm 3 nguyên tắc, cũng là 3 chìa khóa mở ra những cánh cửa hạnh phúc của hôn nhân:
1-Chấp nhận nhau: “Ngài dựng nên họ có nam, có nữ.” (Khởi Nguyên 5:2). Đây là sự chấp nhận căn bản và đầu tiên trong tương quan hôn nhân. Khi bước vào đời sống hôn nhân, cả hai đều bị thu hút một cách mãnh liệt. Theo tự nhiên, đó là sự hấp dẫn của con người khác phái (physical attraction). Lực hấp dẫn này cho thấy cả nam lẫn nữ đều bị thu hút bởi nhau để từ đó, những nẩy sinh tình cảm, tình yêu, và tình dục phát triển theo một chiều hướng tích cực đưa hai người lại với nhau, gần nhau, và cho nhau.
Khi chấp nhận nhau theo phái tính, người nam cũng như người nữ đều hiểu rằng sự khác biệt căn bản đã có sẵn, và chúng ta không thể làm gì khác hơn, ngoài việc tìm kiếm những cách thức hiểu biết để ngày càng trở nên bị thu hút và chinh phục từ những khác biệt ấy.
Những lý thuyết và trào lưu tư tưởng hiện nay về bình quyền nam nữ, đồng tính, hôn nhân đồng tính, và chuyển giới chỉ là những tư tưởng lệch lạc, nếu không muốn nói là bệnh hoạn đang làm sụp đổ nền tảng về gia đình của thế hệ trẻ. Có thể những lý thuyết này chỉ hấp dẫn và bùng phát trong chiều hướng suy tư và quan niệm xã hội nhất thời, nhưng tự căn bản chúng hoàn toàn đi ngược lại với căn tính và chủ đích tạo dựng ban đầu của Thượng Đế.
2-Lắng nghe nhau: “Cảm thông là chìa khóa của hạnh phúc.” Trong tâm lý hôn nhân, ngoài việc vợ chồng chấp nhận nhau về thể lý, tâm lý, và tâm linh, thì việc sống chung với nhau giữa những khác biệt ấy đòi hỏi phải có sự cảm thông và chia sẻ. Đây là chìa khóa thứ hai để mở cửa lòng nhau, và là phương thuốc hóa giải mọi bất hòa, đổ vỡ. Chính trị ngoại giao cũng là một phần trong học thuyết điều hành quốc gia và thế giới hiện nay. Bởi đó mới có những cuộc hội họp thượng đỉnh, những buổi gặp gỡ cấp quốc gia, quốc tế, hoặc những buổi hội thảo, trao đổi trong mọi ngành nghề, mọi cấp độ.
Hạnh phúc hôn nhân được xây dựng trên khả năng lắng nghe và chia sẻ. Nó không liên quan gì đến tuổi tác, ngày giờ cưới hỏi. Và nó cũng không phải là lý do dựa vào hai chữ khắc khẩu. Tất cả những cái đó chỉ nói lên rằng, hai vợ chồng có những bất hòa, tranh chấp, cãi vã chỉ vì không hiểu nhau, hoặc do cái tôi, do tự ái đã dẫn đến những đổ vỡ ấy. Cảm thông và chia sẻ (communication) là một phần trong khoa tâm lý hôn nhân, là một chìa khóa được dùng để mở ra con đường hòa giải, tha thứ và hiểu nhau.
Nhưng làm sao để hai người có thể hiểu nhau và thông cảm được với nhau? Một cách tổng quát họ phải biết cách nói, cách chia sẻ, và cách lắng nghe nhau. Đây là những đề tài cần phải được khai triển rộng rãi hơn. Nhưng tóm lại, thì người ta có thể nói với nhau bằng lời, bằng hành động, và bằng biểu cảm. Không nhất thiết phải gào lên, phải la lối, phải tranh luận. Để lắng nghe nhau, thì tiên vàn chúng ta phải đặt mình vào vài trò người nói. “Hãy xỏ chân vào đôi giầy của người khác”, như vậy mình sẽ có cảm giác thế nào là phù hợp. Và sau cùng là không phỏng đoán, giả định (assume) chuyện này, chuyện khác về nhau hoặc cho nhau. Cái gì không biết hoặc không nắm chắc thì không quả quyết hoặc gán ghép cho nhau.
3-Đồng hành trong niềm tin: Chìa khóa thứ ba là tình yêu xây trên nền tảng tôn giáo. Niềm tin vào Thượng Đế là món quà tinh thần mà Ngài ban tặng cho con người. Nó được ghi khắc trong lòng của mỗi người. Nó không phân biệt chủng tộc, văn hóa, hay tôn giáo. Chính trong niềm tin tôn giáo mà con người tìm được ý nghĩa của cuộc sống, được nâng đỡ và cảm thấy an tâm trên hành trình cuộc sống. Xây dựng tình yêu của mình trên căn bản niềm tin là tin rằng: “Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Gioan 4:8). Từ niềm tin ấy, chúng ta mới trả lời được câu hỏi: “Con người được sinh ra để làm gì?” Đó là, để yêu và được yêu.
Hấp dẫn, mời gọi, thơ mộng, lãng mạn và cuốn hút như tình yêu nam nữ. Hy sinh, quên mình, xả thân như tình yêu cha mẹ dành cho con cái. Tình yêu anh chị em, bè bạn, quê hương… Tất cả đều phát xuất từ tình yêu Thượng Đế chia sẻ với con người.
Nếu đi tìm một thứ tình yêu nào ngoài ý nghĩa của tình yêu ấy là con người đang đi vào con đường dẫn tới hủy diệt, ích kỷ, đam mê, và dục vọng. Bởi vì tình yêu rất mù quáng, nhưng lại mãnh liệt: “Tình yêu mạnh như sự chết.” (Diễm ca 8:6)
Xây dựng một niềm tin tôn giáo vững mạnh cũng chính là tìm được chìa khóa mở cánh cửa dẫn vào một tình yêu bền vững, chung thủy và hạnh phúc của hôn nhân.
_______
1. https://www.statista.com › Society › Demographics
2. United States Wedding Statistics – Joshua Harrison Photography
Nghèo, khó khăn, và thử thách là những vấn nạn mà mọi người, mọi gia đình thường gặp phải trong cuộc đời. Quan niệm nhà Phật gọi đời là “bể khổ!” Còn trong kinh Lạy Nữ Vương, chúng ta đọc thấy những lời này: “Chúng con, con cháu Evà ở chốn khách đầy kêu đến cùng Bà, chúng con ở nơi khóc lóc than thở kêu khẩn Bà thương”. Tóm lại đã mang kiếp nhân sinh, không ai tránh khỏi cảnh nghèo và cũng ít ai tránh gặp phải những khó khăn, thử thách.
Chư huynh đáng kính trong hàng Giám Mục và Linh Mục
Anh chị em thân mến, Trong bài ca Ngợi Khen (Magnificat), một thi ca tuyệt vời của Đức Mẹ mà chúng ta vừa nghe trong Tin Mừng, chúng ta tìm thấy một số từ ngữ gây kinh ngạc. Maria nói: “Từ nay muôn thế hệ sẽ gọi tôi diễm phúc”.
Những hình ảnh cổ nhất diễn tả việc Chúa Giêsu biến hình có từ thế kỷ thứ Sáu được tìm thấy trong tu viện St. Catharine ở Siani, đã diễn tả những gì mà thánh ký Matthêu đã ghi lại trên núi. Theo truyền thống thì Chúa Giêsu đã biến hình trên núi Tabor. Đây là ngọn núi cao 575m ở cuối hướng đông của Thung Lũng Jezreel, cách Biển Galilee 18 Km.
Qua Tiên Tri Isaia, Thiên Chúa được diễn tả như một Thiên Chúa đáng yêu, giầu lòng rộng rãi, nhân ái và bao dung. Ngài luôn mời gọi mỗi người chúng ta đến với Ngài. Lời “mời” của Ngài trường hợp này mang hai nghĩa: -Sự thu hút của lời mời. Trong Isaia chúng ta tìm thấy ý nghĩa của sự thu hút ấy qua những lời: Khát nước, đói, đồ bổ, món ăn mỹ vị, bánh, sữa và rượu…
Nếu có dịp đọc tác phẩm “The Surrendered Wife” (Người Vợ Về Nguồn) của Laura Doyle [1], thì cũng giống như phần lớn các độc giả, bạn sẽ bị thu hút vào một cuộc tranh chấp nội tâm: tán thành hoặc phản đối nội dung và triết lý được tác giả trình bày trong đó.
Trong khi cao trào về nam nữ bình quyền, về nữ quyền đang được đề cao mà có ai đó nói rằng đã đến lúc chị em phụ nữ cần dừng lại để xem xét lại những gì mình đã làm,
Trong thế giới tự do hiện nay, con người xem như muốn giành lấy quyền làm chủ đời mình. Họ muốn biết lành, biết dữ. Với trào lưu tư tưởng không ngừng phản ảnh đến suy nghĩ và hành động. Thêm vào đó, được tiếp tay bởi truyền thông, sự lạm dụng và khuynh loát của giới chính trị, các chủ thuyết tự do của xã hội, và sự suy sụp về luân lý, đạo đức, những phong trào đồng tính, hôn nhân đồng tính và chuyển giới ngày một trở nên thách đố hệ thống luân lý, luật pháp, trật tự xã hội, đạo đức xã hội và cả Thiên Chúa nữa.
Phải bắt đầu dạy đứa trẻ 20 năm trước khi nó chào đời”. Câu nói này được cho là của Napoleon, nhưng quan niệm về tâm lý giáo dục thì cho rằng đứa trẻ không chỉ “sẵn sàng để học”, mà nó đã thực sự học ngay vừa khi chào đời.
Thời gian gần đây thỉnh thoảng tôi vẫn nhận được những cuộc gọi nhờ giúp đỡ hoặc hỏi ý kiến qua điện thoại. Phần lớn những thắc mắc đều quy về hai điểm chính: Hôn nhân và giáo dục con cái.
Tâm lý nhàm chán cho chúng ta lý do để “xét lại”. Theo tâm lý này, người ta có trăm ngàn lý do để đến với nhau, và cũng có trăm ngàn lý do để xa nhau. Một khi tình yêu đã ra nhạt nhẽo, hững hờ, người ta sẽ cảm thấy hối tiếc, thấy phàn nàn, và muốn “thay đổi”. Và hậu quả là đem đến những cám dỗ về ngoại tình, nhất là những lúc “cơm không lành, canh không ngọt”. Như Nguyễn Ánh 9, Hồ Dzếnh cũng có một cái nhìn bi quan về một tình yêu chung thủy, hay đúng hơn một sự mơ mộng về cái thuở còn yêu nhau, theo đuổi và tán tỉnh nhau:
“Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò”. Câu nói này hầu như ai cũng đã nghe và đã biết về ý nghĩa của nó. Tuổi trẻ mà không chút phá phách, nghịch ngợm không phải là tuổi trẻ. Nhưng lưu manh, côn đồ, du đãng, và bắt nạt lẫn nhau thì đó là những hành động không thể chấp nhận. Hậu quả của nó còn để lại một hiện tượng xã hội tồi tệ sau này, đó là: “Cá lớn nuốt cá bé!”
Một trong những cái làm căng thẳng nhất đối với một đứa trẻ là sức ép từ bạn bè “peer pressure”. Ai cũng có kinh nghiệm này khi còn là một trẻ em cắp sách đến trường, đặc biệt ở tuổi vị thành niên, và cả sau này khi đã bước chân vào cuộc sống với những giao tiếp xã hội.
Thánh Giuse, Cha Nuôi Đức Kitô. Ngài đã sinh sống và nuôi vợ con với đôi tay và sức lao động của chính mình bằng nghề thợ mộc. Chúa Giêsu lớn lên cũng theo nghề của dưỡng phụ ngài, và đã trở thành một anh thợ mộc: “Đây không phải là ông thợ mộc sao? Không phải là con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không ở đây với chúng ta sao? Và họ xúc phạm đến Ngài” (Marcô 6:3).
Dù chỉ là một người thợ mộc bình dân, âm thầm, và nghèo nàn, nhưng theo huyết thống, Thánh Giuse thuộc hoàng tộc David. Ở vào thời ngài, dòng dõi David tuy không còn lừng lẫy như xưa, Thánh Giuse vẫn cho thấy ngài là người có tâm hồn cao thượng và thánh thiện. Thánh Kinh kể lại sau khi kết hôn với Maria, do nhận ra Maria có thai, nhưng vì “là người công chính và không muốn công khai tố cáo người bạn mình” (Matthêu 1:19), nên Thánh Giuse đã định tâm lìa bỏ Maria một cách kín đáo. Hành động của ngài đã khiến Thiên Đàng phải can thiệp. Thiên thần Chúa đã được sai đến và cho ngài hay con trẻ đó là Con Thiên Chúa, và Con Thiên Chúa đây được hoài thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.
“Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.” Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” Đức Giê-su bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
“Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời” (Khải Huyền 1:17-18). *
Chúng ta vừa nghe những lời an ủi này trong Bài Đọc Thứ Hai trích từ sách Khải Huyền. Những lời mời gọi chúng ta hướng tầm nhìn vào Chúa Kitô, để cảm nghiệm sự hiện diện bảo đảm của Ngài. Đối với mỗi người, trong bất cứ điều kiện nào, dù cho là phức tạp và bi đát nhất, Đấng Phục Sinh đều lập lại: “Đừng sợ, Ta đã chết trên Thập Giá nhưng nay Ta sống đến muôn đời”, “Ta là đấng trước hết và sau hết, và là đấng hằng sống.”
Theo trình thuật của thánh sử Luca (Lc 24,13-35), hôm đó trên đường từ Giêrusalem về Emmaus có ba người lữ hành. Họ đi bên nhau, chia sẻ những suy tư của mình về một biến cố, theo họ, rất quan trọng và có ảnh hưởng đến không chỉ riêng họ mà còn cả toàn dân Israel nữa. Ba người gồm một người được ghi rõ tên, một người không ghi rõ tên, và một người sau cuối ngày danh tính mới được biết đến. Đây cũng là người, là nhân vật chính trong câu chuyện mà cả ba đã trao đổi suốt dọc đường.
Anh chị em thân mến,
Đây là thời khắc mà tôi đã từng mong đợi. Tôi đã đứng trước Khăn Liệm Thánh trong nhiều trường hợp khác nhau, nhưng lúc này, qua cuộc Hành Hương này và giây phút này tôi đang cảm nghiệm về nó bằng một cường độ đặc biệt: Có lẽ vì trong những năm vừa qua đã cho tôi cảm nhận nhiều hơn đối với thông điệp của Hình Ảnh phi thường này. Và trên tất cả, tôi có thể nói bởi vì giờ này, tôi ở đây như Đấng Kế Vị của Phêrô, và tôi mang trong tim tôi toàn thể Giáo Hội, đúng ra, toàn thể nhân loại.
Các nhà chú giải Thánh Kinh đã đếm được 365 lần câu “đừng sợ” (don’t be afraid) trong Kinh Thánh. Nếu một năm 365 ngày chia đều cho 365 lần nhắc nhở “đừng sợ”, thì ít nhất mỗi ngày một lần, Thánh Kinh nhắc bảo con người rằng “đừng sợ!” Vậy, con người sợ cái gì? Và tại sao Thiên Chúa lại phải trấn an con người như vậy? [1]
Thế gian này là một “vũng lệ sầu” như lời trong kinh Lạy Nữ Vương, vì thế cuộc lữ hành đi về vĩnh hằng của con người chính là một hành trình gặp phải rất nhiều sự sợ hãi. Trước hết, con người phải đối diện với những sợ hãi do ma quỷ là loài thần thiêng, nhưng luôn luôn ghen tỵ và tìm mọi cách để làm hại con người.
Tuần Thánh (Holy Week), tiếng Latin là Hebdomas Sancta hay Hebdomas Maior. Tuần lễ trọng đại này đối với người Kitô Giáo là tuần trước Phục Sinh. Theo Tây Phương, nó bắt đầu bằng tuần lễ sau cùng của Mùa Chay, bao gồm Chúa Nhật Lễ Lá, Thứ Tư, Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bẩy tuần Thánh.
Thế là Giêsu người thành Nagiarét đã “mồ yên mả đẹp”.
Vâng! Hỡi Giêsu. Xin hãy yên nghỉ và quên đi những vất vả sau ba năm truyền giảng Tin Mừng. Quên đi những roi đòn làm tan nát tấm thân. Quên đi mão gai. Quên đi những tiếng la ó đòi kết án. Quên đi bản án bất công. Quên đi thánh giá nặng trên vai. Quên đi những tiếng búa chát chúa làm xuyên thấu tay chân bằng những chiếc đinh dài và nhọn nhưng rất vô tình. Quên đi cơn hấp hối kinh hoàng tưởng chừng “Cha nỡ bỏ con.” (Mt 27:46) Quên đi đồi Golgotha loang máu. Và Giêsu ơi! Xin hãy ngủ yên.
Có khi nào chúng ta đã tự đặt mình vào số những người vây quanh Chúa Giêsu mỗi khi Ngài rao giảng không? Và thái độ của chúng ta lúc đó như thế nào: Hăm hở nghe lời Ngài, suy tôn và thần tượng Ngài về những lời giảng dạy khôn ngoan; hoặc ngược lại, cảm thấy chói tai, mỉa mai Ngài rồi bỏ đi?