SỞ PHƯỚC THIỆN ĐỒNG CÔNG
Tại quận Đồng Xoài (Đôn Luân) – tỉnh Phước Long
Đầu năm 1962, chính quyền do Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo, đã khởi xướng công cuộc phát triển về kinh tế, để thực hiện chương trình, chính quyền phân lô đất rừng để trao cho các hội đoàn khai thác. Phước Long là một tỉnh mới được thành lập ngày 24.7.1961, và được quan tâm để phát triển công nghiệp, nhất là giống cây cao su. Do vậy, Tổng Thống Ngô Đình Diệm có nhã ý mời Anh Cả Đaminh Maria Trần Đình Thủ tới Dinh Độc Lập để thăm hỏi về mức sinh hoạt của dòng để có thể giúp đỡ dòng thêm cơ hội sinh sống và phát triển.…
Sau cuộc hội kiến giữa Tổng Thống Diệm và Anh Cả, Anh đã nhận được hồ sơ đất rừng do Tòa Tỉnh Trưởng Gia Định đưa tới hồ sơ về 3000 mẫu đất rừng dành cho Dòng, thuộc quận Đồng Xoài, tỉnh Phước Long...
Có bản địa đồ đất rừng trong tay, đầu tháng 3 năm 1962, phái đoàn Anh Cả đến Đồng Xoài, được nhân viên của chính quyền địa phương dẫn tới vùng đất rừng nơi cột mốc cây số 10 đến cây số 13 trên quốc lộ 13 đúng như trên bản địa đồ. Nơi đây, đối diện với đồn lính Dân Vệ cạnh một sóc người X’ Tiêng, và cách quận Đồng Xoài 9 km.
Từ khi dòng nhận đất rừng, anh em đã dựng được gần chục gian nhà cấp 4 và có khoảng hơn 10 anh em sinh sống. Anh tổng quản lý Anrê M. Lê An Lạc cùng số ít anh em ấy đã trồng được 30 mẫu cao su, hơn mẫu mía, chuối, dứa, rau cải… Nhưng không được bao lâu thì toàn vùng này mất an ninh nên Anh Cả cho anh em rút hết về tu viện Tiệc Ly, Lái Thiêu, bình Dương vào đầu tháng 10 năm 1964./.
Thật vậy, theo tài liệu từ https://nhathoconggiao.com/danh-sach-nha-tho/nhatho/nha-tho-giao-xu-chau-ninh, trong đó, nguồn của tài liệu này (lấy ở cuốn Hồi ký Cha Bề Trên Đaminh Maria Trần Đình Thủ) thì "Lý Do và Thực Hiện" cơ sở này như sau:
"Đầu năm 1962, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa do Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo khởi xướng thành lập các khu dinh điền khai phá rừng thuộc tỉnh Phước Long giáp quận Tân Uyên tỉnh Bình Dương làm khu dinh điền trồng cao su.
"Cha Bề Trên Đaminh Maria Trần Đình Thủ nhờ Cha Thiều và Thầy Cương xin chính quyền khai thác 3.500 mẫu đất rừng quận Đôn Luân (Đồng Xoài) từ cây số 10, 5 đến 13,5 tính từ quận Đôn Luân (Đồng Xoài) đi Bù Đăng thuộc quyền Đức Cha Hiền ở giữa lô đất (1.500 mẫu) của Dòng Trinh Vương và Dòng Đaminh (1500 mẫu).
"Đức Cha Hiền (biệt chú của em: hồi ấy chưa có Giáo phận Buôn Mê Thuột với vị giám mục tiên khởi là Đức Cha Nguyễn Huy Mai, và cho tới khi có tân giáo phận vào năm 1967 này, Cơ Sở Phước Thiện Đồng Công mới không còn thuộc GP Đà Lạt nữa), đồng ý cho đưa Nhà Dòng lên đất mới. Cha con rủ nhau lên cắm đất ở Đồng Xoài, 70 mẫu cho tu viện rồi cho “quân quốc” ồ ạt lên xây dựng. Tuy vất vả lao nhọc nhưng đã trồng được hơn 100 cây chôm chôm, mấy chục cây sầu riêng, hơn mẫu mía, gần 30 mẫu cao su. Và xây dựng được 2 chiếc nhà, mỗi cái 6, 7 căn lợp lá, vây gỗ. Dựng một nhà nguyện bằng gỗ, một hội quán và vài lớp học, và được hơn chục gia đình giáo dân tới sinh sống.
"Thật là may, chưa kịp đưa toàn bộ phận lên thì chiến tranh bùng nổ tại quận lỵ Đôn Luân cách đất nhà dòng 6, 7 cây số. Cứ đêm đến các “bác” vào mua gạo, dấm muối làm cho mọi người teo tim quặn ruột, nhưng cũng cứ tiếp tục trồng tỉa đất đai cho tới 1964 mới rút khỏi Đồng Xoài hoàn toàn, vì giao thông bế tắc, không sống nổi, kéo nhau về Thủ Đức".
Nhà thờ Châu Ninh Bố Đức, Phước Long 1959
1/ Linh mục Luca Maria Phạm Quang Thiều, CMC
Cha Hùng / Vĩ mắc áo thâm chùng đen
Năm 2020, THĐC HK đã đóng góp 9 ngàn 800 MK để phụ giúp vào công trình xây dựng tu viện của anh em dòng ở mảnh đất sát cạnh Giáo xứ Châu Ninh này,
một tu viện vẫn chưa khởi công, vì ưu tiên mục vụ trước
Khu đất vẫn còn trống, đôi khi được các tổ chức xã hội hay dân chúng mướn để làm nơi sinh hoạt, như em thấy chiều hôm 19/11/2023
Giáo xứ Châu Bình ở Thủ Đức từ năm 1956 và Giáo Xứ Châu Ninh ở Bố Đức từ năm 1959 là một cặp Nhà thờ
(cũng "Châu": Châu bình - Châu ninh; và cũng "đức": Thủ đức - Bố đức),
cả hai đều ở trong đất của dòng và đều được anh em dòng coi sóc từ đầu cho tới nay.
Do đó, không lạ gì 4 trong 10 vị linh mục đầu tiên phục vụ Giáo xứ Châu Bình (hình trên),
theo thứ tự, cũng là 4 vị trong 5 vị đã phục vụ Giáo xứ Châu Ninh (hình từng vị phục vụ GX Châu Ninh ở phần trên đây).
Giáo phận Đà Lạt cũng có liên hệ từ đầu với Cơ sở của Dòng ở Giáo Phận Buôn Mê Thuột,
vì Cơ sở của dòng khi chưa có Giáo phận Buôn Mê Thuột bấy giờ thuộc Giáo Phận Đà Lạt
Tu Viện Thiên Mẫu Di Linh
Aa. Tịnh và Khâm phụ trách việc truyền giáo cho người K' Ho tại Đồng Lạc
Anh Tịnh (LK 6) đang dẫn họ vào khuôn viên Tu viện Thiên Mẫu xã Đồng Lạc quận Dijring (Di Linh) tỉnh Lâm Đồng
Anh chị em dân tộc trước nhà khách của Tu viện Thiên Mẫu Dijring sau khi được anh em dòng khoản đãi bữa ăn
Anh em dòng thực hiện công tác kiến thiết khu dưỡng lão cho người K' Ho neo đơn, cao tuổi vùng Di Linh, Thành lập vào năm 1974, nhưng bị chính quyền mới giải tán ngày 16/6/1975.
Đây là nhóm AE Đội XI, nhập Tập viện năm 1972 ở Tu viện Thiên Mẫu Di Linh, từ trái sang phải, ai quen biết có thể nhận diện như sau:
Người duy nhất đứng cuối cùng bên trái là Anh Nguyễn Quang Đán, Phó giáo tập (Đội X và XI), đệ nhị Giám tỉnh chi dòng và cũng là đệ nhị Tổng Phục vụ toàn dòng (2012-2023);
Người cười cười ngồi ngay trước cột nhà là Anh Vũ Minh Nhiên, đệ lục Giám tỉnh Chi dòng và cũng là đệ tam Tổng Phục vụ toàn dòng;
Người ngồi hàng đầu, không mũ, đăm chiêu nhìn xuống là chàng Nguyễn Minh Ngọc, chuyên viên video NTM và đương kim thư ký THĐC (2019-2023);
Người ngồi hàng thứ hai, ngay sau Anh Ngọc và trước Anh Nhiên là Anh Bùi Hồng Việt đang ở San Jose CA;
Hàng thứ nhất, Anh Khiết (thứ ba) và Anh Đương (không mũ cuối phải và đã trở về tỉnh dòng tu lại).
Rất tiếc em chỉ ở Đồn điền Thiên Mẫu Di Linh 2 năm (1980-1982),
khi mới có mấy anh em ban đầu (Aa Thịnh LK1 Giám đốc, Mô LK2 nội thiện, Hân LK5, Tịnh LK6, Khâm LK7, Giác LK 8, Chỉnh LK9),
sang năm 1981 có thêm Lớp tập X đông hơn, vui hơn, cho đến thời điểm thiên định, nghĩa là sau khi bất ngờ thử thách trắc nghiệm em về Lý tưởng Thánh Đồng Công,
Anh Cả đã sai em vào phục vụ Tiểu Chủng viện Simon Hòa Đà Lạt (1972-1974), tiếp theo thời của Anh Trần Trung Giáo LK 1 (1968-1970).
Cư xá Sinh Vên Rạng Đông Đà Lạt
Đội X, khi còn là thỉnh sinh ở ĐTV, trước khi vào Nhà tập ở TV Thiên Mẫu Di Linh, đã ghé tham quan Cư xá Rạng Đông ngày 26.3.1971
Những Sinh viên năm đầu tiên ở Cư xá Sinh viên Rạng Đông của dòng 20.6.1971
Ban Giám đốc (Anh Lm Hóa Giám đốc, và Aa Giáo LK I và Thần LK IV) và ban đại diện sinh viên ở Cư xá Sinh viên Rạng Đông ngày 20.6.1971
Cư xá đón sinh viên ngày 12.11.1971
Năm 1973, Anh Cả ra xe về từ trên phòng cha Lê Văn Lý, viện trưởng viện của Đại Học Công Giáo Đà Lạt,
nơi anh em dòng theo học: Aa. Chu LK8, Thư, Lâm và Học 3LK9 v.v., hay phục vụ A. Trác LK8.
Cư xá Sinh viên Rạng Đông của Đồng Công ở gần Đại Chủng Viện Minh Hòa mới của GP Đà Lạt,
nơi Anh Đàm LK 8 được Anh Cả sai phái tới phục vụ, đồng thời với em bên Tiểu chủng viện Simon Hòa.
Đại Chủng Viện Minh Hòa mới của GP Đà Lạt bấy giờ có Cha Nguyễn Văn Nhơn là giám đốc và Cha Bùi Văn Đọc là giáo sư,
không ngờ cả 2 vị này sau 1975 đã trở thành 2 vị TGM ở 2 TGP Hà Nội và Sài Gòn.
Cư xá Sinh viên Rạng Đông của Đồng Công cũng ở gần Cư xá của các Sơ Trinh Vương, trong khi các sơ ở trên đồi cao thì cư xá Rạng Đông ở sườn dồi bên dưới.
Trong thời gian phục vụ ở TCV Simon Hòa gần Đập Đa Thiện, em cũng hay thường ghé thăm anh em dòng ở Cư xá Rạng Đông không xa,
nhất là chở Anh Hoàng Trọng Tín LK 5, một người anh bẩm sinh về nhạc, nhưng anh đã không dám nhận tạm coi sóc Ca đoàn Hồn Nước của nhạc sĩ Hải Linh,
theo lời ngỏ nhờ của vị nhạc sĩ này, trước khi ông du học lấy tiến sĩ nhạc ở Pháp quốc,
thế mà anh cũng vẫn khiêm tốn cùng em đi tham dự lớp ca trưởng đặc biệt của Nhạc sĩ Hải Linh dạy riêng cho những ai yêu nhạc,
tại Đại Học Thụ Nhân Đà Lạt năm 1983-1984, nơi cũng gần Cư xá Rạng Đông.
Năm 1984, Anh Cả tính sai em vào Đại Học Thụ Nhân Đà Lạt này để làm quản lý cho đại học này, một vai trò sau đó đã được Anh Trác LK VIII đảm nhiệm hơn là em.
Năm 1974, sau thời gian 2 niên khóa (1972-1974) phục vụ ở Tiểu Chủng viện Simon Hòa Đà Lạt, em được Anh Cả chỉ định về Lương Sơn Phan Rí.
Bấy giờ Anh Phạm Ngọc Liên (LK 5) làm giám đốc, Anh Thu (LK 5) làm hiệu trưởng, và Anh Hoàng Thiện Giản LK III cũng hưu ở đó,
và đa số toàn là anh em Đội X ở Di Linh tới để xây cất cơ sơ mới nhất này và sau đó dạy học ở đây luôn:
Aa Khánh, Diễm, Chúc, Ngạn, Hán, Trạc, Trưng, Uẩn, Hựu, Tiệp, Dụ, Toán, Quỳnh, Quốc, Tụng, Nhu.
Trường ĐC Lương Sơn sau 30.4.1975, nhà nước xây dãy lầu phía sau. Ảnh 2002
Sau thời gian ngắn ở Tu viện Mẹ Thăm Viếng Lương Sơn Phan Rí với vai trò là quản lý,
Anh Cả chuyển em ra Trường Trung Học Đồng Công ở Nhà Đá để dạy đệ nhị cấp, sau đó ít lâu Anh Cả bảo em làm bếp thay Anh Trân cùng đội.
Những anh em ở Nhà Đá năm 1974-1975 bao gốm mấy anh đội trên, như Anh Lm Trần An Tĩnh (LK 5) làm Giám đốc, và Anh Nguyễn Châu Đạt (LK 2),
đa số là anh em Đội IX, vì Nhà Đá (cả 3 đợt IX a-b-c) đều vào nhà tập và khấn đầu (1966-1970): Aa Cao Xuân Cảnh (9A), Lưu Chủ (9B), Minh Trân (9C), tâm phương (9A)
Cuối cùng toàn bộ anh em Đồng Công ở Nhà Đá rút quân vào chính ngày Thứ Năm Tuần Thánh 27/3/1975,
bằng chiếc Daihatsu về Phán Rí Cửa, rồi cả người lẫn xe xuống thuyền về Bến Đá Vũng Tầu để từ đó về Thủ Đức.
Quí anh em Đồng Công ở Lương Sơn Phan Rí này cũng thế, cũng được lệnh Anh Cả rút quân từ Tháng 3/1975,
bởi Anh linh cảm thấy đất nước đã đến lúc lâm nguy, đến độ Anh phải lo và đã lo cho anh em dòng xuất hành - Vượt Qua
Xin đón coi tiếp