PVLC Tuần XXX Thường Niên

TỚI NGUỒN SỰ SÁNG

Bài của Đức  Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt

I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA

- Gr 31,7-9

- Dt 5,1-6

Mc 10,46-52

II. TẤM BÁNH CHIA SẺ

Người mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Cảnh tượng này cho ta thấy đời anh bị bao phủ bởi nhiều thứ bóng tối.

Trước hết là bóng tối thể lý. Không có đôi mắt, đời anh chìm trong tăm tối. Không biết thế nào là ánh sáng. Không biết thế nào là cảnh thiên nhiên. Không nhìn được khuôn mặt của những người thân. Không tự mình làm gì được. Không tự mình sinh sống được. Chẳng biết có ánh sáng ban ngày. Đời anh chìm ngập một bóng đêm. Bóng đêm dày đặc không một chút ánh sáng. Bóng đêm triền miên không bao giờ chấm dứt. Tất cả là một màu đen. Thế giới màu đen. Quần áo anh mặc màu đen. Khuôn mặt mọi người đều màu đen. Cơm anh ăn hằng ngày cũng màu đen. Một màu đen muôn thuở.

Kế đến là bóng tối xã hội. Vì tàn tật anh trở thành người dư thừa trong xã hội. Anh bị loại trừ khỏi xã hội. Chỉ còn ngồi bên vệ đường mà ăn xin. Như cây cỏ mọc bên đường thôi. Thậm chí khi Chúa đến, mọi người nô nức đón Chúa. Còn anh chỉ kêu lên thôi cũng đã bị người ta cấm đoán, đe nẹt rồi. Anh không có quyền gì hết. Vì anh chỉ là thân phận sống nhờ ở đậu.

Sau cùng là bóng tối tâm lý. Cuộc đời anh không có lối thoát. Anh bị kết án suốt đời chịu giam cầm trong bóng tối. Làm sao thoát ra được khi anh không thể tự mình làm gì. Khi mọi người kể cả những người thân ruồng bỏ anh. Khi xã hội gạt anh ra bên lề cuộc sống.

Nhưng Chúa Kitô đem đến cho anh ánh sáng ngập tràn. 

Người chiếu vào đời anh ánh sáng hi vọng. Tuy chưa được gặp Chúa, nhưng chỉ nghe những lời Chúa giảng, những việc Chúa làm anh đã tràn trề hi vọng. Chúa có thể giải thoát anh khỏi định mệnh tăm tối vây bọc cuộc đời anh. Người có thể đưa anh tới miền ánh sáng. Tương lai anh sẽ thay đổi. Cuộc đời anh sẽ tươi sáng. Anh tràn ngập niềm hi vọng. Niềm hi vọng trở thành ánh sáng chiếu soi cuộc đời anh. 

Người chiếu vào đời anh ánh sáng đức tin. Tuy chưa gặp Chúa nhưng anh đã hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Không tin sao được vì chỉ có Chúa là Đấng duy nhất có thể cứu anh khỏi bóng tối. Vì thế thoạt nghe tiếng Chúa anh đã kêu van lớn tiếng xưng tụng Người là Con Vua Đavít nghĩa là Đấng Cứu Thế. Có lẽ những người đi đón Chúa hôm ấy đều có đôi mắt sáng. Nhưng không ai có ánh sáng đức tin. Vì không ai tin Chúa là Đấng Cứu Thế. Trừ anh mù. Mắt anh mù nhưng đức tin của anh sáng. Nên anh là người duy nhất lớn tiếng tuyên xưng Chúa là Đấng Cứu Thế. Niềm tin của anh thật mãnh liệt. Dù bị mọi người chung quanh ngăn cản, niềm tin ấy không những không bị suy yếu mà còn càng trở nên mạnh mẽ hơn. Bị mọi người đe dọa, cấm cản, niềm tin của anh càng vững vàng không gì có thể lay chuyển được, nên anh càng kêu to hơn. 

Người đã chiếu vào đời anh ánh sáng tình yêu. Chúa là tình yêu. Chúa không nghe bằng tai nhưng nghe bằng trái tim. Vì thế giữa đám đông hỗn độn của thành Giêricô phồn hoa, Chúa vẫn nghe được tiếng kêu van của một người con bé nhỏ ngồi bên vệ đường. Không những Chúa nghe thấy tiếng lòng khốn khổ của anh mà Chúa còn ưu ái gọi anh đến. Thật là một cử chỉ ưu ái quá sức tưởng tượng. Giữa đám đông trong một thành phố phồn hoa, Chúa chẳng gọi ai trừ ra người mù ngồi bên vệ đường. Chúa chẳng chờ đợi ai trừ ra chờ đợi người con nhỏ bé tội nghiệp bị bỏ rơi nhất thành phố đến với Chúa. Đời anh chưa được ai yêu thương như thế. Đời anh chưa được ai quan tâm như thế. Đời anh chưa được ai mời gọi như thế. Đời anh chưa được ai chờ đợi như thế. Và Chúa còn hỏi anh muốn gì. Đời anh chưa được ai âu yếm như thế. Tình yêu Chúa làm cho đời anh bừng sáng. Anh tìm thấy tất cả ý nghĩa cuộc đời khi gặp được Chúa. Chúa đem ánh sáng đến cho anh. Chúa là tất cả đời anh. Anh không cần gì khác nữa. Anh vất bỏ cả áo choàng là tài sản duy nhất. Vì anh đã khám phá ra kho tàng quí giá nhất đời. Anh đứng phắt dậy mà đến với Chúa vì tuy mắt chưa nhìn thấy mà lòng anh sáng như sao băng. Và nhất là anh đi theo Chúa cho đến cùng vì Chúa chính là ánh sáng cho đời anh. Chúa sẽ dẫn đường anh đi. Đi đến Sự Thật và đến Sự Sống.

 Đời sống tôi có nhiều bóng tối vì tôi chưa tin vào Chúa. Đời sống tôi bế tắc vì tôi chưa đặt niềm hi vọng vào Chúa. Đời tôi mệt mỏi chán chường vì tôi chưa yêu mến Chúa. Hãy tin tưởng vào Chúa. Ánh sáng đức tin sẽ chiếu soi đường đời tôi đi. Hãy hi vọng vào Chúa. Niềm hi vọng là ánh sáng ấm áp cho cuộc đời. Hãy yêu mến Chúa. Tình yêu Chúa là ánh sáng hướng dẫn mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của tôi. Hãy noi gương anh mù thành Giêricô bỏ tất cả mà theo Chúa. Sống bên Chúa đời tôi sẽ ngập tràn ánh sáng.

III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU

1. Hãy kể ra những thứ bóng tối trong đời anh mù thành Giêricô.

2. Hãy kể ra những thứ ánh sáng Chúa đã chiếu vào đời anh.

3. Tại sao anh mù sau khi hết mù đã đi theo Chúa?

4. Bạn có bị bóng tối nào bao phủ đời bạn không?

5. Bạn có tìm thấy Chúa là ánh sáng cho đời bạn không?


Từ Giáo xứ Thánh Phanxicô Xavier Liupo Giáo phận Nacala Mozambique
xin chào bình mình Cộng đồng Dân Chúa,
Để tiếp tục bài Suy Niệm của ĐTGM Ngô Quang Kiệt trên đây 
chúng ta cùng nhau cử hành toàn bộ PVLC Tuần 30 Thường Niên 
được chính thức dẫn nhập bởi PVLC CN đầu tuần này, 
ở những đường kết nối từng ngày, bao gồm bài viết
/ text, phát thanh / audio mp3 và phát hình / video thứ tự như sau:

Tuần XXX

 (xin theo dõi PVLC suốt tuần kèm theo các bài chia sẻ từng ngày và hạnh Thánh theo ngày ở cái link trên đây)
Xin cho tôi được thấy... Ánh sáng Chân lý)

https://youtube.com/live/fgtTVB0sRPI

DTCPhanxico HuanTuTruyenTinCNXXX -B.mp3 /

 https://youtu.be/yt6wLgwvFNs

MTN.CNXXX-B.mp3 / 

https://youtu.be/on9SWtG6Lxg (Chúa Nhật)

LeThanhSimon-GiudaTongDo.mp3 /

 https://www.youtube.com/watch?v=N1ko39D8mVo (28/10 - Thứ Hai)

TN.XXXL-3.mp3

TN.XXXL-4.mp3 

TN.XXXL-5.mp3

LeChuThanh.mp3 / 

https://youtu.be/g8BcHD-khJw (1/11 - Thứ Sáu)

DTCPhanxico-HuanTuTruyenTinLeCacThanh.mp3 /

 https://youtu.be/rrAlVHXudpA

Thu.7.XXX.mp3 / 

https://youtu.be/7P8oudj492w

LeCacDangLinhHon.mp3 / LeCauChoTinHuuQuaDoi.mp3 / 

https://youtu.be/vOoJdcE8OLE (2/11 - Thứ Bảy)

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm B hôm nay vẫn tiếp tục chủ đề sự sống của Mùa Phục Sinh và từ Mùa Phục Sinh, một sự sống theo ý nghĩa ánh sáng: "ánh sáng sự sống - the light of life" (Gioan 8:12).

Thật vậy, nếu chết là hiện tượng hay sự kiện linh hồn lìa khỏi thể xác, tức là tình trạng con người hoàn toàn và vĩnh viễn không còn biết gì nữa, thì sống thực sự là tình trạng con người còn nhận biết hay có nhận thức, có ý thức. Đó là lý do "sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha đã sai là Đức Giêsu Kitô" (Gioan 17:3). 

Nếu "nhận biết" Thiên Chúa hay nhận biết tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa là tác động siêu nhiên, để được sự sống đời đời như thế thì "nhận biết" cũng chính là tác động "tin": "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, để ai tin vào Người thì không phải chết nhưng được sự sống đời đời" (Gioan 3:16).

Mà muốn cho loài người thuộc hạ giới "nhận biết" và "tin" những gì thuộc thượng giới, những gì thuộc về "Thiên Chúa là thần linh" (Gioan 4:24), những gì được gọi là mạc khải thần linh vô cùng huyền nhiệm và siêu việt, vượt trên tâm trí chẳng những hạn hẹp và thấp hèn mà còn đầy mù quáng và thiên lệch của con người, nhờ đó họ được sự sống đời đời, được thông phần sự sống thần linh với mình, Thiên Chúa không thể nào không tỏ mình ra cho họ, như "ánh sáng chiếu trong tăm tối" (Gioan 1:5), nhất là "vào lúc thời gian viên trọn" (Galata 4:4), qua "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), Đấng là "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9).

Việc Chúa Giêsu chữa lành cho "một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường" trong bài Phúc Âm hôm nay là biểu hiệu cho mạc khải thần linh, như "ánh sáng (là Chúa Kitô) chiếu trong tăm tối (là người mù)". Tuy nhiên, việc Chúa Giêsu chữa lành cho người "con ông Timê tên là Bartimê" này không phải chỉ để cho anh ta lành mạnh về thể lý nơi thị lực của anh ta mà là để anh ta được sự sống đời đời, nhờ việc anh ta "nhận biết" Người, "tin" vào Người: "đức tin của anh đã chữa anh", và chính nhờ anh ta đã "thấy được" mọi sự, nhất là thấy được Chúa Giêsu là "ánh sáng thế gian" mà anh ta đã "đi theo Người", vì "ai theo Tôi sẽ được ánh sáng sự sống" (Gioan 8:12).

Thật ra, trước khi được Chúa Giêsu chữa lành cho cặp mắt chỉ thấy toàn tối tăm của mình, nạn nhân mù ngồi ăn xin bên vệ đường ở Giêricô này đã thấy được những gì mà đôi mắt bất hạnh của anh ta, dù có sáng tỏ như một người bình thường, cũng không thể nào thấy được, đó là anh ta thấy được một Đấng vô hình mà anh hằng tin tưởng đợi chờ. Bởi thế chẳng lạ gì, như Phúc Âm hôm nay chứng thực: "Khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nadarét, liền kêu lên rằng: 'Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi'". 

Vì là Đấng "đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì hư hoại" (Luca 19:10), Chúa Giêsu làm sao không dừng lại khi nghe thấy nạn nhân bất hạnh này kêu van và kêu vang thảm thiết như thế, nhất là khi thấy "nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: 'Hỡi con vua Ðavít, xin thương xót tôi'". Thế nên, Phúc Âm đã thuật lại rằng: "Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến".

Có thể là Chúa Giêsu đã đi ngang qua chỗ người mù ngồi ăn xin này, vì Phúc Âm vừa thuật lại rằng "Chúa Giêsu dừng lại ...", và Người hình như cũng đã cố ý không lưu ý gì đến nạn nhân đáng thương đầy lòng tin này, để nhờ đó có thể chẳng những tỏ mình ra cho riêng anh ta bằng việc chữa lành cho anh ta, mà còn chữa lành cho chung đám đông dân chúng và riêng các môn đệ của Người đang đi theo Người, khi họ thấy được đức tin mãnh liệt của anh ta nơi Người, ở chỗ "càng kêu to hơn" và ở chỗ "liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu". 

Cử chỉ bao gồm 3 tác động "liệng áo choàng (như từ bỏ quá khứ), đứng dậy (như hướng đến tương lai), đến cùng Chúa Giêsu (như cùng đích cuộc đời)" một cách cương quyết và dứt khoát này, chứng tỏ nạn nhân mù ấy đã tin chắc rằng mình sẽ được toại nguyện như lòng mong ước, như anh ta đã chân thành và tha thiết thưa cùng Chúa Giêsu: "Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy".  

Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy một cuộc hội ngộ tuyệt vời giữa ánh sáng và bóng tối, giữa Chúa Giêsu và người mù ăn xin bên vệ đường. Ở chỗ, người mù ăn xin này vốn mong được gặp Chúa Giêsu, và chính Chúa Giêsu cũng muốn gặp chàng ta nữa: "Người gọi anh đó", thậm chí Người còn muốn gặp chàng trước khi chàng muốn gặp Người và Người muốn gặp chàng hơn là chàng muốn gặp Người, vì Người bao giờ cũng cứu độ, cũng muốn chữa lành, cho dù vào Ngày Hưu Lễ. Bởi thế, hai ước muốn gặp nhau này đã thực sự xẩy ra hết sức tuyệt vời như vậy! 

Trước một con người vừa mù lòa về thể xác vừa tin tưởng về tâm linh như thế, tấm lòng vô cùng nhân hậu của Chúa Giêsu làm sao không bị đánh động, vì, như Bài Đọc 2 hôm nay cho thấy, Người "là tư tế đến muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê", một vị thượng tế "hiến dâng lễ vật và hy lễ đền tội. Người có thể thông cảm với những kẻ mê muội và lầm lạc". Ở chỗ, như Bài Đọc 1 hôm nay diễn tả như ám chỉ về Người: "Chúng vừa đi vừa khóc, Ta sẽ lấy lòng từ bi và dẫn dắt chúng trở về. Ta sẽ đưa chúng đi trên con đường thẳng, băng qua các suối nước; chúng không phải vấp ngã trên đường đi".

Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa nhận thức của thành phần dân Do Thái lưu đầy trở về đối với Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, Đấng không bao giờ bỏ họ, luôn ra tay cứu độ họ, một khi họ biết ăn năn thống hối chịu đựng khổ ải gây ra do tội lỗi của họ phản bội Ngài, Đấng chỉ đánh động họ bằng những gian nan khốn khó bất hạnh cho đến khi họ nhận thức mà được cứu độ, được sự sống thần linh là chính lòng họ tin tưởng vào Ngài: 

1) Khi Chúa đem những người từ Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan. 

2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: "Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng." Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. 

3) Lạy Chúa, hãy đổi số phận của con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan. 

4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo; họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa.