1- Mùa
Xuân Trước Nguyên Tội
2- Mùa Xuân
Sau Nguyên Tội 
3- Mùa Xuân Maria
4- Mùa Xuân Viên Mãn
Đaminh Maria cao tấn tĩnh, BVL
(Toàn bộ bài viết 4 phần
này đã được phổ biến trên các Nguyệt
San Công Giáo hải ngoại: Trái Tim
Đức Mẹ 1/1995, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp
2/2000, Hiệp Nhất 2/2000,
và Nguyệt San Dân Chúa Mỹ
Châu số kép 1-2/2012)
Tác giả xin phổ biến lại
bài viết 27 năm về trước này vào dịp
mừng tân xuân âm lịch 2021 này,
vì cảm thấy rất thích
hợp với thời điểm vẫn còn trong Năm
Chúc Tụng Chúa Laudato Si',
24/5/2020-2021,
kỷ niệm 5 năm ĐTC
Phanxicô ban hành Thông Điệp Chúc
Tụng Chúa Laudasto Si' về hệ sinh
thái của Trái Đất là Ngôi Nhà Chung
của nhân loại chúng ta.

2.- MÙA XUÂN SAU NGUYÊN TỘI
Nếu "trước Nguyên Tội" đã có mùa
xuân, thì phải chăng ngay "ban đầu"
ấy trời đất cũng đã có 4 mùa
xuân-hạ-thu-đông theo thời tiết như
hiện nay?
"4 mùa xuân-hạ-thu-đông theo
thời tiết như hiện nay",
theo cảm nghiệm tự nhiên, có thể ví
như tâm trạng của trời đất được bộc
lộ qua những dáng vẻ thay đổi định
kỳ trong thiên nhiên.
"Xuân" là
thời gian đầu năm "mới mẻ", hiển
hiện qua không gian nẩy nở đầy "tươi
trẻ", làm cho nhân gian sống trong
không gian và thời gian cảm thấy hân
hoan "vui vẻ".
"Hạ" là thời
gian năng động, hiển hiện qua không
gian thật căng thẳng và nóng nảy,
làm cho nhân gian dễ cảm thấy hung
hăng, không thể ngồi yên.
"Thu" là
thời gian tàn tạ, hiển hiện qua
không gian vàng úa và trống vắng,
làm cho nhân gian dễ cảm thấy bâng
khuâng, buồn buồn.
"Đông" là
thời gian cô đọng (ngày ngắn đêm
dài), qua không gian lạnh lẽo và tăm
tối, làm cho nhân gian cảm thấy co
ro, đơn độc, nhung nhớ, mang một mầu
sắc chết chóc.
"4 mùa xuân-hạ-thu-đông theo
thời tiết như hiện nay",
nếu quả thật "trước Nguyên Tội" đã
có thì không biết tình trạng "trần
truồng mà không biết xấu hổ" (STK
2:25) của hai nguyên tổ ra sao? Có
thể lúc bấy giờ, khi còn ở trong
tình trạng Công Chính Nguyên Thủy,
tình trạng "vô tội" và không biết
đến tội lỗi là gì, da thịt của ông
bà được miễn nhiễm khỏi mọi bất hạnh
trong đời sống, gây ra từ môi sinh
hay chăng?
Thế nhưng, chính trong lúc "trước
Nguyên Tội" này mà mối thân tình
giữa "trời đất" và con người "làm
chủ nó" không thể có gì ngăn cách.
Bởi đó, nếu "trước Nguyên Tội" đã có
4 mùa, vì không có quần áo để ăn mặc
theo "thời trang", thì da thịt "trần
truồng" của hai ông bà chắc hẳn sẽ
phải biến dạng theo "thời tiết": đỏ,
vào "mùa xuân Mỹ Châu", đen vào "mùa
hè Phi/Úc Châu", vàng vào "mùa thu Á
Châu", và trắng vào "mùa đông Âu
Châu". Nếu "trước Nguyên Tội" đã có
4 mùa, thì không biết hai nguyên tổ
che đậy bản thân "trần truồng" của
mình và trốn lánh Thiên Chúa làm sao
được khi Nguyên Tội xẩy ra vào cuối
"mùa thu lá bay", lúc mà Vườn Địa
Đường đã trở thành một khu rừng thưa
trần trụi?!?
"4 mùa xuân-hạ-thu-đông theo
thời tiết như hiện nay",
với bản chất luân chuyển theo tác
động thời gian, được tỏ lộ qua hình
dáng nơi không gian như thế, làm sao
nó có thể xuất hiện ngay "từ đầu",
khi mà "Thiên Chúa nhìn mọi sự Ngài
đã làm và Ngài thấy nó rất tốt đẹp"
(STK 1:31).
"4 mùa xuân-hạ-thu-đông theo
thời tiết như hiện nay",
do đó, chỉ bắt đầu có kể từ "sau
Nguyên Tội". "Trước Nguyên Tội", nếu
có "mùa" thì chỉ duy có Xuân: Mùa
Thái Hòa của Trời Đất, trong trật tự
tạo dựng của Đấng Hóa Công, và nếu
có "thời" thì chỉ là Thời Phúc Lộc
Thọ của Con Người, trong yêu thương
của "Thiên Chúa là Cha phép tắc vô
cùng dựng nên trời đất" (kinh Tin
Kính).
"Sau Nguyên Tội" ở
đây tức là lúc "con cựu xà, gọi là
ma qủi hay Satan, tên cám dỗ cả thế
gian" (KH 12:9), đã dùng chính miệng
lưỡi thâm độc "không có sự thật
trong mình" (Gioan 8:44) để sát hại
con người "từ ban đầu" (Gioan 8:44).
"Sau Nguyên Tội" ở
đây cũng là lúc hai nguyên tổ nghe
theo "tên gian trá và là cha của
những sự dối trá" (Gioan 8:44) "ăn
cây (Thiên Chúa) cấm không được ăn"
(STK 3:11), và "cả hai đã mở mắt ra,
nhận thấy mình trần truồng" (STK
3:7), phải đan lá vả làm áo che thân
mình và không dám đối diện với Thiên
Chúa (x.STK 3:7,8).
"Sau Nguyên Tội" ở
đây còn là lúc Bản Án Nguyên Tội
được tuyên phán, minh định tình
trạng băng hoại nơi cả hữu thể của
"con người được dựng nên theo hình
ảnh Thiên Chúa" (STK 9:6), cũng như
nơi bản chất của tạo vật được dựng
nên "rất tốt đẹp" ngay "ban đầu" cho
con người.
Theo Bản Án Nguyên Tội, hữu thể của
con người bị băng hoại ở chỗ: "Ngươi
sẽ đổ mồ hôi mới có của ăn... cho
đến khi ngươi trở về bụi đất" (STK
3:19), và bản chất của tạo vật nói
chung cũng vì con người mà bị băng
hoại ở chỗ: "Vì ngươi (con người) mà
khốn cho đất... Đất sẽ trổ sinh gai
góc cho ngươi" (STK 3:17). Phải,
chính tình trạng bị biến dạng
(deformation) có nghĩa tiêu cực này,
chứ không phải tình trạng được biến
hình (transformation) có nghĩa tích
cực, nơi con người "làm chủ trái
đất" và nơi "đất" ngay "từ ban đầu"
như thế, mới sinh ra và mới có "4 mùa xuân-hạ-thu-đông theo
thời tiết như hiện nay":
Xuân thường từ cuối tháng 12 tới
cuối tháng 3, Hạ thường từ cuối
tháng 3 tới cuối tháng 6, Thu thường
từ cuối tháng 6 tới cuối tháng 9,
Đông thường từ cuối tháng 9 tới cuối
tháng 12, và từ cuối mùa Đông sang
đầu mùa Xuân thường có mưa để những
gì chết chóc trong giá lạnh mùa Đông
được hồi sinh tươi tốt trong ấm áp
mùa Xuân.
"Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" từ
đó bắt đầu đi vào ngõ hẻm của lịch
sử nhân gian, được mở màn bằng mùa
hè "đổ mồ hôi" (STK 3:19), khi "Chúa
là Thiên Chúa tống cổ con người ra
khỏi Vườn Địa Đường, để cầy sới đất
đai mà từ đó con người được hình
thành" (STK 3:23). Cũng từ đó, mưa
bắt đầu đổ xuống trái đất, chứ trước
đó, ngay "ban đầu", "Chúa là Thiên
Chúa chưa làm mưa xuống trái đất và
chưa có con người cầy sới đất đai"
(STK 2:5). Từ đó, không còn "Mùa
Xuân Nguyên Thủy", Mùa Thái Hòa Trời
Đất nữa. Cũng từ đó, trên trái đất,
có nơi một năm có đủ bốn mùa, như ở
miền Bắc Việt Nam, song cũng có nơi
một năm chỉ có hai mùa, mùa nóng và
mùa mưa, như ở miền Nam Việt Nam.
"Mùa Xuân Sau Nguyên Tội",
như thế, không phải là và không còn
là Mùa Thái Hòa Trời Đất, Mùa mọi sự
còn liên kết và hòa hợp với nhau như
ý và theo ý Đấng Hóa Công. Nó cũng
không còn là và không phải là Thời
Con Người Phúc Lộc Thọ nữa, Thời con
người còn sống trong Phúc được làm
con cái Thiên Chúa "theo hình ảnh
thần linh", hưởng Lộc tự do với
quyền "làm chủ trái đất", và hưởng
Thọ không "phải trở về bụi đất".
Theo lịch sử nhân gian, "Mùa Xuân
Sau Nguyên Tội" chỉ là một trong "4
mùa xuân-hạ-thu-đông theo thời tiết
như hiện nay", với thiên chức là mùa
đầu trong một năm, và với sứ mạng là
làm mới lại những gì đã phát triển
trong "mùa hè đỏ lửa" song đã tàn tạ
trong "mùa thu lá bay" và đã lịm
chết trong "mùa đông nghĩa địa".
"Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" đã
trở thành Mùa Hy Vọng cho con người
và của con người, vì hai lý do. Thứ
nhất, vì còn giữ được nét xuân, qua
hai trong ba yếu tố chính là "mới
mẻ" và "tươi trẻ", tuy không nguyên
tuyền như "ban đầu", "Mùa Xuân Sau
Nguyên Tội" vẫn có thể làm cho con
người "vui vẻ", vui xuân, hưởng
xuân. Thứ hai, nhất là vì cái còn
làm cho con người đã bị hư đi "vui
vẻ" mừng xuân, đón xuân, không phải
ở tại "Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" còn
"nét xuân", cho bằng niềm hy vọng ở
ngay chính trong lòng người.
"Niềm Hy Vọng" này
bắt đầu ló dạng trước khi con người
bị "Thiên Chúa tống cổ ra khỏi Vườn
Địa Đường". Ngay trong Bản Án Nguyên
Tội, Thiên Chúa là Đấng "yêu (con
người) trước" (1Gioan 4:19) đã chẳng
tự động loan báo cho họ một Tin Vui
hay sao, khi nhưng không đoan hứa
với con người: "Ta sẽ gây thù hận
giữa ngươi (ma qủi) và người nữ,
giữa giòng dõi ngươi và giòng dõi
người nữ. Ngài sẽ đạp nát đầu ngươi,
trong khi ngươi rình cắn gót chân
ngài" (STK 3:15).
"Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" trở
thành Mùa Hy Vọng chẳng những cho
con người mà còn cho chung cả tạo
vật nữa. Kể từ khi con người bị
"Thiên Chúa tống cổ ra khỏi Vườn Địa
Đường", Vườn Địa Đường vốn là thiên
thai trần thế đã chẳng trở thành khu
cấm địa hay sao (x.STK 3:24)? Bởi
đó, thời tiết có 4 mùa định kỳ sau
Nguyên Tội không phải là phản ảnh
tâm trạng của trời đất hay sao, một
tâm trạng "quằn quại và rên xiết"
(Rm 8:22) của "toàn thể tạo vật đang
ngong ngóng đợi trông cuộc hiển linh
của con cái Thiên Chúa" (Rm 8:19).
"Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" sẽ
mất hết ý nghĩa nếu con người sống
trong lầm than và vô vọng. "Người
buồn cảnh có vui đâu bao giờ"
(Nguyễn Du: Kiều): như mùa xuân hận
thù đầy tang thương chết chóc với
những ngày đầu năm khói lửa vào dịp
Tết Mậu Thân 1968, hay như mùa xuân
vô vọng tự trong lòng người, nơi các
trại tị nạn Đông Nam Á, đối với
thành phần Thuyền Nhân Việt Nam bị
rớt thanh lọc, lo âu chờ đến phiên
bị trả về với quê hương yêu dấu, nơi
mà họ không còn tìm thấy an bình
"vui vẻ".
"Mùa Xuân Sau Nguyên Tội" là
bóng ma chập chờn, nếu con người chỉ
quay cuồng với cuộc sống hiện sinh.
Đối với thành phần "chơi xuân kẻo
hết xuân đi, cái già xồng xộc nó thì
đến kia" (Trần Tế Xương?), xuân
không có gì là "mới mẻ", vì càng làm
cho họ già thêm, không có gì là
"tươi trẻ", vì càng làm cho họ tàn
phai nhan sắc, không có gì là "vui
vẻ", vì càng làm cho họ thất vọng về
cuộc sống hiện sinh chẳng thể nào
làm cho họ hoàn toàn thỏa mãn.
(Chân thành đa tạ - Xin đón xem
tiếp phần 3: Mùa Xuân Maria)
