Lễ Chúa Giáng Sinh - Năm C |
MỘT SỰ TRAO ĐỔI KỲ DIỆU |
Lm Ignatiô Hồ Thông |
Lễ Giáng Sinh được ghi nhận vào thế kỷ thứ tư. Thật ra, các giáo hội Đông Phương đã cử hành Sinh Nhật của Đức Giê-su rồi. Họ tưởng niệm vào ngày mồng 6 tháng giêng, dưới danh xưng lễ “Hiển Linh” vừa biến cố các nhà đạo sĩ đến thờ lạy Hài Nhi vừa biến cố Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy giả, đồng thời tiệc cưới Ca-na, nghĩa là ba biến cố đầu tiên Chúa Giê-su tỏ mình ra công khai. Ấy vậy, cuộc tưởng niệm ba biến cố cùng một lúc này được đi trước bởi đêm canh thức cầu nguyện, suốt đêm đó cuộc Giáng Sinh của Đức Giê-su được gợi lên. Có thể đó là nguồn gốc của lễ Đêm Giáng Sinh của chúng ta. Is 9: 2-4, 6-7. Bài đọc I là bài thơ tràn đầy hy vọng của ngôn sứ I-sai-a. Tám trăm năm trước đó, vị ngôn sứ hân hoan loan báo cuộc đản sinh của Đấng Cứu Độ. Tt 2: 11-14. Trong đoạn trích thư gởi cho ông Ti-tô, thánh Phao-lô nhắc nhở cho người môn đệ của mình đồng thời cũng là người bạn đồng hành của mình rằng lòng nhân từ của Thiên Chúa bắt đầu tỏ rạng ở nơi cuộc Giáng Sinh của Đức Giê-su, Ngài là Thiên Chúa vĩ đại và là Cứu Chúa của chúng ta, bởi vì lễ Giáng Sinh đã gieo mầm cho sự huy hoàng vinh quang ngày lễ Phục Sinh. Lc 2: 1-14.
Với hoạt cảnh
Giáng Sinh của Đức Giê-su, thánh Lu-ca dẫn chúng ta vào ý nghĩa sâu xa
của mầu nhiệm Thiên Chúa làm người trong cảnh cơ hàn:
“một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”.
Ngôn sứ I-sai-a sáng tác bài thơ này không bao lâu sau lời sấm về Đấng Em-ma-nu-en: ông gợi lên những biến cố đã xảy ra vào những năm 734-732 trước Công Nguyên. Ông ca ngợi một trẻ thơ thuộc hoàng tộc Đa-vít sắp chào đời, chắc hẳn trẻ thơ này là “Em-ma-nu-en” (“Thiên Chúa ở cùng chúng ta”) trong lời sấm trước đây của ông (Is 7: 14). Hoàn cảnh lịch sử vào lúc đó không kém phần nghiêm trọng, nhưng không liên quan đến kinh thành Giê-ru-sa-lem. Phần đầu của bài thơ (không được trích dẫn ở đây) cho thấy đó là miền Ga-li-lê.
Vua Át-sua là Tích-lát
Pi-le-xe xâm chiếm vương quốc phương Bắc và đã bắt đi lưu đày thành phần
dân Ga-li-lê ưu tú đến Át-sua. Quân đội Át-sua có tập quán tàn bạo là
móc mắt tù binh. Có lẽ ngôn sứ I-sai-a ám chỉ đến ở đây: “Đoàn người
đang lần bước giữa tối tăm…”
Dù thế nào, bóng tối biểu tượng nỗi khốn cùng. Nhưng này một niềm vui vỡ bờ. Đức Chúa giải thoát dân Ngài. Vị ngôn sứ phác họa bức tranh đầy màu sắc tươi vui: niềm tủi nhục thành vinh quang, tối tăm thành ánh sáng, cảnh đời nô lệ thành cuộc sống tự do. Bài thơ sánh ví những giờ phút hân hoan này với niềm hoan hỉ của nông dân trong mùa gặt và của chiến binh khi chia nhau chiến lợi phẩm. Cuối cùng và nhất là không còn dấu vết chiến tranh nữa: những đôi giày chiến và những quân phục nhuốm máu trở thành mồi cho lửa. Thiên hạ sẽ không cần những trang cụ chiến tranh nữa, vì Thiên Chúa can thiệp sẽ đảm bảo một nền hoà bình viên mãn.
Để viện dẫn lý do cho
lời sấm của mình, ngôn sứ I-sai-a nêu lên một tiền lệ lịch sử: Đức Chúa
đã giải thoát dân Ga-li-lê rồi trong một giai đoạn đau thương khác của
lịch sử của họ: khi họ gặp phải những quấy nhiễu của dân Ma-đi-an, Ngài
giúp ông Ghít-ôn lập chiến công lẫy lừng đánh bại những kẻ áp bức.
Nguyên do của niềm hân
hoan và những viễn tượng tràn đầy hy vọng này, chính vì một trẻ thơ chào
đời thuộc hoàng tộc Đa-vít. “Người con đó gánh vác quyền bính trên vai”. Người ta nghĩ đến nghi thức choàng áo long bào trên vai của vị tân vương – hay trao cho tân vương một vương trượng (cả hai biểu tượng này đều được chứng thực trong lễ phong vương). Xa hơn, vị ngôn sứ viết: “Nó sẽ là cha đối với cư dân Giê-ru-sa-lem và với nhà Giu-đa. Chìa khoá nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó” (Is 22: 21-22). “Danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, là Thần Linh dũng mãnh, là Người Cha muôn thuở, là Hoàng Tử Hòa Bình”. Chắc chắn đây là những vương hiệu được ban cho vị tân vương vào ngày tấn phong. Người ta gặp thấy nguyên mẫu tương tự ở Ai-cập. Quả thật, những danh hiệu tôn kính này là những phẩm tính thần linh, nhằm nhắc nhở rằng “tân vương là thiên tử”. “Cố Vấn kỳ diệu”, “Thần Linh dũng mãnh”, đó là những ân huệ được hứa ban cho một mầm non từ gốc tổ Gie-sê: “thần khí khôn ngoan và minh mẫn”, “thần khí mưu lược và dũng mãnh” (Is 11: 1-10). “Người cha muôn thuở” danh hiệu thường được ban cho vua – vị cha của dân tộc – để cầu chúc vương triều của vua muôn đời bền vững. “Hoàng Tử Hoà Bình”, hoà bình là thiện hảo của thời mê-si-a. Các ngôn sứ tranh nhau tiên báo nền hoà bình này.
Phụng vụ lễ Giáng Sinh
áp dụng tất cả những danh hiệu tôn kính này cho Hài Nhi Bê-lem, vì nhận
ra ở nơi trẻ thơ này là “Đấng Em-ma-nu-en”
đích thật.
Điều bí ẩn này sẽ gặp
thấy lời giải đáp bảy thế kỷ sau. Miền Ga-li-lê rực sáng lên ánh sáng
Tin Mừng; Đức Giê-su tự thân là người Ga-li-lê. Nhưng với tư cách là hậu
duệ của vua Đa-vít, Ngài sinh ra ở Bê-lem, trong vương quốc phương Nam
xưa. Lời loan tin vui của đoàn thiên sứ cho toàn dân (Lc 2: 10) đối đáp
với khúc hoan ca của vị ngôn sứ ca ngợi một hoàng nhi ra đời. Ông Ti-tô là một trong số môn đệ và bạn đồng hành kỳ cựu nhất của thánh Phao-lô. Ông đã cải đạo; song thân ông đều là người Hy lạp. Thánh Phao-lô đã trao gởi cho ông các cộng đoàn Ki tô hữu miền Tiểu Á. Vì thế, ông gặp phải những khó khăn nghiêm trọng. Những chống đối đặc biệt đến từ môi trường Do thái, từ Do thái giáo chịu ảnh hưởng Hy lạp này mà chính thánh Phao-lô đã hạm trán ở nơi khác. Vì thế, đối với ông Ti-tô, những lời khuyên của thánh nhân thật là quý báo.
Thật khó xác định niên
biểu của bức thư này. Chắc chắn đây là một trong số những bức thư cuối
đời của thánh nhân. Nhưng chúng ta không biết chắc là thánh nhân đã chịu
hành hình vào năm 63 hay năm 67. Nếu thánh nhân được diễm phúc tử đạo
vào năm 67, thì thư gởi cho ông Ti-tô được viết vào năm 65. Lúc đó,
thánh nhân có thể đang ở Ma-xê-đoan. Trong vài hàng, thánh Phao-lô nhắc nhở ông Ti-tô giáo huấn cốt lõi mà ông phải kiên vững truyền đạt: ơn cứu độ Thiên Chúa đã gởi đến cho con người là nhưng không và phổ quát. Thiên Chúa đòi buộc các tín hữu từ bỏ tội lỗi và sống thánh thiện trong khi chờ đợi ngày quang lâm của Đức Ki tô, là “Thiên Chúa vĩ đại, và là Đấng Cứu Độ của chúng ta”.
Việc dùng chữ Thiên
Chúa cho Đức Giê-su Ki tô không là cách dùng quen thuộc của thánh
Phao-lô. Thánh nhân thường hay dùng chữ “Thiên Chúa”
chỉ để chỉ Chúa Cha. Chúng ta gặp thấy một ví dụ duy nhất trước đây
trong thư gởi tín hữu Rô-ma: “Người (Đức Ki tô) là Thiên Chúa, Đấng
vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn thuở muôn đời. Amen” (Rm
9: 5b). Dường như những người Do thái giáo bác bỏ Thần Tính của Đức
Giê-su Ki tô, một vấn đề mà ông Ti-tô đang phải đương đầu.
Bức thư này không chỉ
có lợi ích về phương diện tín lý, nhưng còn về phương diện mục vụ. Quả
thật, cùng với hai bức thư gởi cho Ti-mô-thê, bức thư gởi cho Ti-tô được
gọi “thư mục vụ”,
vì vị sứ đồ cho những huấn lệnh liên quan đến việc tổ chức các cộng đoàn
Ki tô hữu. Quả thật, tất cả các Tông Đồ của Đức Giê-su đã qua đời, đến
thời của những người được các Tông đồ uỷ quyền (ông Ti-tô là một trong
số họ). “Khi hai ông bà đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ.
Đừng hiểu rằng Đức
Ma-ri-a và thánh Giu-se bị xua đuổi, điều này hoàn toàn trái với phong
tục tập quán hiếu khách của người Do thái. Nhưng thật bất tiện đối với
một người phụ nữ bụng mang dạ chữa sắp đến ngày mãn nguyệt khai hoa ở
nơi đông đúc như vậy. Chỉ nghĩ đến những lữ quán Đông Phương, ở đó
người, vật và hàng hoá chen nhau trong sân. Có thể có các phòng trọ
nhưng tiền thuê rất đắc, chỉ dành cho những người giàu.
Ngoài ra, chiếc nôi đầu
đời của Ấu Chúa là một “máng cỏ”.
Thánh Lu-ca nhấn mạnh sự kiện này đến ba lần (hai lần trong đoạn văn
trích này, và một lần khác nữa xa hơn). Đây cũng là dấu hiệu mà các sứ
thần cho các mục đồng để nhận ra Ngài. Điểm nhấn này chắc hẳn có chủ ý.
Với điểm nhấn này, thánh ký có thể đã hiểu lời tiên báo về số phận của
hài nhi này, Đấng sẽ dâng hiến thân mình khi nói: “Anh em hãy cầm
lấy mà ăn, vì này là Mình Thầy”. “Con trai đầu lòng” phải chịu nhiều quy định của Lề Luật: phải được thánh hiến và dâng hiến cho Thiên Chúa nhờ hy lễ “chuộc lại” như trường hợp của Đức Giê-su với “một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non” (của lễ của con nhà nghèo).
Diễn ngữ “con đầu
lòng”
được lấy lại trong những viễn cảnh Ki tô giáo: Đức Giê-su là Trưởng Tử
của một cuộc sáng tạo mới; Trưởng Tử của các vong nhân; mầu nhiệm Nhập
Thể của Ngài thật sự mang ơn cứu độ đến cho nhân loại: “người anh cả
của một đàn em đông đúc”, như lời của thánh Phao-lô.
Ba mươi năm sau đó,
Đấng ấy sẽ cất cao giáo huấn của mình: “Ai tự hạ, coi mình như em
nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời”
(Mt 18: 4); “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì nước
trời là của những ai giống như chúng” (Mt 19: 13-15). Trong Tin
Mừng, có một con đường thánh thiện bằng cách trở nên trẻ thơ, và con
đường này bắt nguồn từ Hài Nhi Bê-lem. Thế nên, không ai gợi lên nhiều mâu thuẫn ở nơi chính mình cho bằng Đức Giê-su này, Ngài sinh ra như một kẻ đầu đường xó chợ khốn cùng nhất trong số những kẻ vô gia cư và chết như một tên tội phạm nguy hiểm nhất trong số các tên tội phạm. René Habachi sử dụng khái niệm triết học để diễn tả mầu nhiệm mâu thuẫn này: Thiên Chúa là “Cái Là” (l’Ētre: Hữu Thể), “Cái Là tuyệt đối”, vì thế Ngài không cần “Cái Có” (Avoir), vì ở nơi Ngài “Cái Có” bị tiêu tan bởi “Cái Là”. Cũng một cách nào đó như vậy “cái nghèo vô tận của Thiên Chúa, cái không có tận cùng của Thiên Chúa, là dấu chỉ Thần Tính của Ngài”.2
Jacques Loew trong tác
phẩm “Như thấy Đấng Vô Hình”
đã cho chúng ta một bài suy niệm sâu sắc về mầu nhiệm Giáng Sinh theo
cùng một cách này: “Chúa Giê-su đã sinh ra bé nhỏ và nghèo hèn chắc
là để biểu lộ tình thương của Ngài đối với những bé nhỏ và nghèo hèn
trong thế giới cho tới tận thế; nhưng thật ra cuộc đản sinh khiêm tốn
của Ngài còn có ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Chẳng có gì xứng đáng cho Chúa
cả; chẳng có gì cao trọng đủ để mà tiếp rước Ngài, cù có trang hoàng mỹ
lệ, dù có cung điện lộng lẫy, dù loài người có khôn ngoan. Vì thế Thiên
Chúa chọn một nơi không gì hết là vì ở đó không có sự cạnh tranh lố
bịch, không có vẻ giàu sang giả tạo. Chúa chỉ ngự đến nơi nào mà ở đó
Ngài là tất cả: ở Máng cỏ, trong cảnh nghèo nàn thực sự, nơi mà Đức
Ma-ri-a, một tâm hồn khó nghèo” (bản dịch của Lưu Tấn, trang
16-17). Những người đầu tiên được loan tin mừng Giáng Sinh là những người chăn chiên, nghĩa là những người tầm thường, thường vô học, được liệt vào hạng đàn bà, trẻ con và nô lệ. Đức Giê-su tự đặt mình vào số những người nghèo, khiêm hạ và bé nhỏ. Những người chăn chiên đến vây quanh Hài Nhi, thờ lạy Ngài: Đức Giê-su đến “để chăn dắt dân Ngài”. Ngài là Mục Tử đích thật, Mục Tử nhân lành (Ga 10: 11-15). Sau cùng việc Đức Giê-su sinh hạ ở giữa những người chăn chiên Bê-lem là “dấu chỉ Đa-vít” tuyệt vời. Ngài sinh ra ở những nơi mà cậu bé Đa-vít đã canh giữ đàn chiên. Ngài là Đa-vít mới. 7. Thiên sứ. Bản hợp xướng của các thiên sứ là một dấu chỉ khác: dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Triều đình thiên giới đã dời chỗ vì Hài Nhi Máng Cỏ không ai khác hơn là Thiên Chúa đích thân. Các thiên sứ loan báo “một tin vui trọng đại cho toàn dân” . Thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng nhạy bén nhất trước bầu khí vui tươi mà biến cố Nhập Thể đem đến. Niềm vui này là niềm vui mê-si-a mà các ngôn sứ biết bao lần đã loan báo (ví dụ như bài đọc I), khúc dạo đầu cho niềm vui viên mãn của cõi đời đời.Sứ điệp các thiên sứ gởi đến thật vĩ đại, những từ ngữ thật cảm động: “Đấng Cứu Độ”, “thành vua Đa-vít”, “Đấng Ki tô (Mê-si-a)”, “Đức Chúa”. Thật tương phản biết bao với lời kết thúc thật khiêm tốn này: “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”. Tương phản này tiền trưng một tương phản khác: bên máng cỏ này được bao quanh bởi ánh sáng và lời hoan ca, ẩn hiện một bóng tối, bóng tối của núi Sọ; vì Ngôi Lời hóa thành nhục thể, không phải để nhục thể này một ngày kia bị tra tấn, bị nhục mạ, bị đóng đinh vào thập giá sao?
Bài ca của các thiên
sứ: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho loài người
Chúa yêu”,
có thể được mượn ở một bài thánh thi phụng vụ Do thái. Lời hoan hô chúc
tụng của đám đông vào lúc Đức Giê-su khải hoàn vào thành thánh
Giê-ru-sa-lem trích dẫn cùng những lời như vậy: “Bình an trên cõi
trời cao, vinh quang trên các tầng trời” (Lc 19: 38). |