Chúa Nhật XVI - Thường Niên - Năm B |
CHÚA GIÊSU CHẠNH LÒNG THƯƠNG |
JKN |
Câu hỏi gợi ý: 1. Cảm xúc của Đức Giêsu ra sao khi thấy dân chúng «như bầy chiên không người chăn dắt»? Cảm xúc ấy có dẫn Ngài đến hành động không? Nếu ta đứng trước cảnh dân chúng như thế thì cảm xúc và phản ứng của ta thế nào? Ta có hành động như Ngài không? 2. Mục tử tốt và mục tử xấu khác nhau chỗ nào? Khác nhau ở lời nói hay ở hành động? Mục tử xấu có thể rao giảng thật hay, và tỏ ra thật hiền lành đạo mạo nhưng lại có thể sẵn sàng làm ngơ trước đau khổ của đồng loại không? Có thể căn cứ vào vẻ hiền lành đạo mạo để chắc chắn rằng đó là mục tử tốt không? 3. Người mục tử tốt lành có thể không cảm xúc trước những đau khổ của đàn chiên, sẵn sàng im lặng trước những bất công ngay trước mắt mình, hoặc khoanh tay đứng nhìn bất động trước những bàn tay giơ lên cầu cứu mình không? Suy tư gợi ý: 1. Khả năng «chạnh lòng thương» và hy sinh cho dân chúng Bài đọc 1 nói về những mục tử xấu và về lời Thiên Chúa hứa hẹn sẽ ban cho dân những mục tử tốt. Vì thế, qua bài Tin Mừng được ghép với bài đọc I, Giáo Hội muốn nói tới khả năng yêu thương của người mục tử, đặc biệt khả năng «chạnh lòng thương» như Đức Giêsu trước những đau khổ của dân chúng, khả năng hy sinh để cứu khổ và đem lại hạnh phúc cho họ. Bài Tin Mừng cho thấy sự đói khát chân lý của dân chúng. Họ chẳng những nghèo về vật chất, mà còn nghèo về kiến thức, về khả năng suy nghĩ, về văn hóa, về tâm linh, vì không ai chỉ dẫn dạy bảo họ. Khi thấy Đức Giêsu giảng dạy «như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư» (Mt 7,29), họ theo Ngài rất đông. Sau khi rao giảng và dạy dỗ họ đã lâu, Đức Giêsu và các môn đệ cảm thấy mệt và cần nghỉ ngơi, nên phải «lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút». Nhưng dân chúng vẫn còn ham muốn được nghe Ngài dạy bảo, nên không để cho Ngài và các môn đệ nghỉ ngơi, mà lại tiếp tục bám sát các ngài đến nỗi các ngài «chẳng có thì giờ ăn uống nữa». Trước tình cảnh này, đáng lẽ Đức Giêsu từ chối họ vì Ngài và các môn đệ cần phải nghỉ ngơi và cầu nguyện, đó là những nhu cầu hết sức chính đáng của các ngài. Nhưng Ngài không làm như vậy mà lại «bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều». Tại sao? Vì Ngài luôn luôn «chạnh lòng thương» trước nỗi cùng khốn của họ, «họ như bầy chiên không người chăn dắt». Tình thương bao la đã khiến Ngài trở nên rất nhạy cảm trước nhu cầu cũng như nỗi thống khổ của mọi người. Tình thương ấy đòi buộc Ngài phải làm cho họ một cái gì. 2. Mọi mục tử cần có khả năng «chạnh lòng thương» Ước gì mọi mục tử - là những người muốn noi gương Đức Giêsu một cách đặc biệt và triệt để hơn những Kitô hữu bình thường khác - cũng có khả năng «chạnh lòng thương» trước những nỗi cùng khốn của những «con chiên» mình chăn dắt. «Chạnh lòng thương» để sẵn sàng hy sinh cho họ: chẳng hạn hy sinh giấc nghỉ trưa, giờ đọc kinh nguyện, thậm chí cả giờ nghỉ đêm… khi họ cần mình giúp đỡ. Tôi có quen và rất cảm phục một linh mục nọ: khi có một bệnh nhân ở một bệnh viện nào kêu ngài đến xức dầu hoặc giải tội, ngay cả vào ban đêm hay khi trời mưa, thì ngài đều sẵn sàng lên đường đến với họ. Họ không biết kêu ai ngoài ngài trong những trường hợp đặc biệt ấy, vì hầu hết các linh mục khác gần bệnh viện đều từ chối. Thế rồi người này nói với ngài kia về sự sẵn sàng của ngài, nên về sau người ta chỉ còn biết đến với Ngài, dù họ ở những bệnh viện khá xa. Điều khiến tôi phục ngài sát đất là khả năng «chạnh lòng thương» của Ngài qua nhiều năm tháng vẫn không suy giảm, khiến ngài luôn luôn sẵn sàng đến với những ai đau khổ, dù sức khỏe ngài không được tốt lắm. Và nhất là vì ngài luôn luôn rất bận: ngài là cha phó một xứ lớn, và cũng là một nhà nghiên cứu, viết lách, đồng thời còn bận làm một số công tác trong giáo phận. Tôi hằng cầu nguyện cho Giáo Hội Việt Nam có được nhiều linh mục như ngài! 3. Đời biết bao cảnh khổ đau khiến ta «chạnh lòng thương» Đức Phật nói: «Đời là bể khổ». Quả thật, đời người có biết bao nỗi khổ, nhất là trong những đất nước theo những thể chế phi nhân, độc tài: dân chúng nghèo nàn, lầm than, khổ sở trong một xã hội đầy dẫy áp bức, bất công. Trong những xã hội như thế, người mục tử - vốn là hiện thân của Đức Giêsu - cần phải có khả năng «chạnh lòng thương» hơn bất kỳ ở đâu khác. Trong xã hội Do-thái xưa, Đức Giêsu đi tới đâu mà gặp những người đau khổ cần cứu giúp thì Ngài luôn luôn ra tay, không bao giờ từ chối: «Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó» (Cv 10,38). Hiện nay, Ngài không còn ở trần gian để «thi ân giáng phúc» như thế nữa, nhưng Ngài đã lập nên một đội ngũ mục tử - gồm những người tình nguyện tiếp nối sứ mạng «mục tử» của Ngài - để thay Ngài và nhân danh Ngài «thi ân giáng phúc» cho tất cả những ai đau khổ. Nhờ vậy, Ngài vẫn có thể rao giảng chân lý, nói những lời an ủi mọi người qua miệng các mục tử ấy. Ngài vẫn có thể lắng nghe mọi người bằng đôi tai của các mục tử. Ngài vẫn yêu thương bằng con tim của họ. Ngài vẫn phục vụ bằng đôi tay họ. Ngài vẫn đến với mọi người bằng đôi chân của họ. Ngài làm tất cả những điều tốt đẹp cho mọi người bằng bản thân của họ. Các mục tử chính là hiện thân của Ngài giữa lòng thế giới đầy đau khổ này. Nếu mọi mục tử của Ngài đều thật sự sống đúng điều họ đã cam kết khi dấn thân làm mục tử thì dân chúng sẽ bớt được biết bao đau khổ! 4. Những «mục tử ghẻ» Nhưng than ôi, nếu thời nào cũng có những «con chiên ghẻ» thì thời nào cũng có những «mục tử ghẻ» như ngôn sứ Giêrêmia mô tả trong bài đọc I. Những «mục tử ghẻ» là những mục tử có trái tim bằng đá chứ không phải bằng thịt (x. Ed 36,26), không có khả năng «chạnh lòng thương» như Đức Giêsu. Vì thế, họ sẵn sàng làm ngơ và lạnh lùng quay mặt đi trước những bất hạnh cùng cực của người khác, trước những cánh tay đưa lên van xin họ cứu giúp một cách tuyệt vọng. Họ có thể điềm nhiên nhìn những cảnh bất công xảy ra nhan nhản trước mắt cho chiên của mình mà trong lòng không cảm thấy mình phải làm một cái gì, hay phải nói lên một lời nào để cải thiện những cảnh ấy. Họ sợ bị phiền hà đến bản thân nên sẵn sàng tỏ ra vô trách nhiệm trước mọi cảnh áp bức xảy đến với chiên của mình. Họ được Đức Giêsu mô tả như những kẻ chăn chiên thuê: «Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn» (Ga 10,12). Tệ hơn nữa, nhiều «mục tử ghẻ» lại còn vì quyền lợi của mình mà sẵn sàng ngấm ngầm đứng về phe kẻ ác, bênh vực kẻ gây bất công. Những mục tử này có thể là thầy dạy về đức tin, về tình thương. Họ tuyên xưng đức tin ngoài miệng rất mạnh mẽ, lên án gắt gao những ai chỉ tuyên xưng khác với mình một chút. Nhưng khi gặp những tình huống cần phải chứng tỏ đức tin thực tế của mình, người ta mới thấy đức tin ấy chỉ là thứ «đức tin chết» (Gc 2,26; x. 2,17), hay đức tin ngoài vỏ, rỗng ruột. Những bài giảng về tình thương của họ nghe rất tuyệt vời, nhưng khi cần phải chứng tỏ bằng thực tế chính tình thương của mình, người ta mới thấy tình thương của họ chỉ là tình thương ngoài miệng lưỡi. Trong một xã hội phi nhân và bất công, «đàn chiên» của những «mục tử ghẻ» ấy nhiều khi phải mang hai lần ách: ách đời thường vốn đã nặng lại còn phải gánh thêm ách đạo nặng không kém, vì thế họ trở nên bất hạnh gấp đôi những kẻ bất hạnh khác. Trái lại, một mục tử tốt lành luôn luôn làm cho mọi người đến với mình cảm thấy được trút bớt gánh nặng, hoặc cảm thấy mạnh sức hơn để có thể nhấc bổng gánh nặng của mình. Kitô giáo đúng nghĩa phải đem lại giải phóng chứ không hề chất thêm gánh nặng cho con người. Mọi mục tử phải nói được như Đức Giêsu: «Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ bồi dưỡng cho» (Mt 11,28). 5. Số phận của những mục tử Nếu những mục tử tốt lành sẽ được Thiên Chúa chúc phúc và ân thưởng, thì những mục tử xấu sẽ bị Thiên Chúa ra án phạt nghiêm khắc. Trong bài đọc I, ngôn sứ Giêrêmia nói về số phận các mục tử xấu ấy: «Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi» (Gr 23,1-2). Ngôn sứ Dacaria cũng viết: «Ta sẽ bừng bừng nổi giận đánh phạt các mục tử» (Dc 10,3); «Hãy nghe tiếng rú của các mục tử, vì vẻ huy hoàng của chúng đã tiêu tan» (11,3). Những mục tử xấu đáng trừng phạt. Vì thế, nếu không có khả năng «chạnh lòng thương» trước những đau khổ của con người, tốt hơn không nên làm mục tử. Đã nhận sứ mạng làm mục tử thì phải biết yêu thương đàn chiên. Những mục tử không thương đàn chiên, bỏ mặc chiên cho sói ăn thịt, hoặc còn hùa theo những kẻ gian ác để hại đàn chiên thì có thể được ưu đãi, trọng vọng, được sung sướng, được hưởng nhiều ân huệ và đặc quyền đặc lợi mà những kẻ bóc lột đàn áp chiên dành cho. Nhưng rốt cuộc cuộc đời họ sẽ kết thúc trong đau khổ, họ sẽ mang tiếng xấu muôn đời. Những vết nhơ, những vết đen trong lịch sử cuộc đời họ làm sao có thể rửa sạch được? Danh thơm tồn tại mãi, mà tiếng xấu cũng không bao giờ phai. Người đời vẫn thường nói: «Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ». Cầu nguyện Lạy Cha, trong xã hội và thế giới hiện nay có rất nhiều mục tử, nhiều nơi thậm chí dư thừa, nhưng mục tử tốt biết «chạnh lòng thương» và biết hy sinh cho đàn chiên thì vẫn luôn luôn thiếu. Dân chúng đau khổ không cần những mục tử vô tâm, họ chỉ cần và rất cần những mục tử biết «chạnh lòng thương». Xin Cha hãy ban cho chúng con những mục tử tốt ấy như Cha đã hứa qua miệng ngôn sứ Giêrêmia (Gr 23,4). Amen. |