Chúa Nhật Lễ Thánh Gia - Năm C |
MẪU GƯƠNG SÁNG NGỜI |
Lm Giuse Đinh lập Liễm |
A. DẪN NHẬP Hằng năm, lễ Thánh gia được tổ chức vào Chúa nhật sau lễ Giáng sinh để nêu lên một tấm gương sáng chói cho các gia đình noi theo. Sách Tin mừng thuật lại rất ít sự kiện có liên quan đến lễ này. Tuy nhiên, chúng ta cũng gặp thấy những gương nhân đức của từng thành phần trong gia đình thánh gia như : các nhân đức âm thầm của Đức Maria, đức tin phó thác của thánh Giuse và sự vâng phục của Đức Giêsu. Đấy là những mẫu gương sán lạn, những bài học quí giá cho chúng ta. Nếu mỗi thành phần trong gia đình thực hành được những nhân đức ấy thì gia đình sẽ trở nên một cộng đoàn yêu thương, sống đùm bọc lẫn nhau, trong cảnh trên thuận dưới hòa, trong ấm ngoài êm. Ngày nay các gia đình trên thế giới nói chung, và gia đình Công giáo nói riêng, đang trên đã xuống dốc : ly dị lan tràn khắp nơi, gia đình tan vỡ ly tán, gây ra cho xã hội biết bao cảnh thương tâm. Nếu mỗi thành phần trong gia đình biết noi gương Thánh gia mà xây dựng gia đình, cố gắng trung thành thi hành nhiệm vụ của mình một cách hoàn hảo thì gia đình sẽ thành một cộng đoàn hạnh phúc, một “Giáo hội tại gia” đúng nghĩa. B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA. + Bài đọc 1 : Hc 3,3-7.14-17a. Sách Huấn ca hôm nay dạy con cái phải thảo kính cha mẹ. Thảo kính cha mẹ không phải chỉ là một tình cảm tự nhiên mà còn là ý muốn của Thiên Chúa :”Thứ bốn thảo kính cha mẹ”. Việc thảo kính cha mẹ sẽ đem lại nhiều ơn ích : - Đền bù các tội lỗi đã phạm. - Khi cầu xin, sẽ được Thiên Chúa nhận lời. - Nếu ai hiếu thảo với cha mẹ thì sau này sẽ dược con cháu thảo hiếu lại vì như người ta nói :” sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy”. + Bài đọc 2 : Cl 3,12-21. Trong thư mục vụ gửi cho tín hữu Colossê và Eâphêsô, thánh Phaolô rất chú trọng đến đời sống gia đình. Theo đó, trong đời sống gia đình phải có những đức tính như : từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau. Trong các đức tính ấy, thánh Phaolô đặc biệt chú trọng đến việc tha thứ. Ngài khuyên :”Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em hãy tha thứ cho nhau”. Nhưng muốn thực hiện được các đức tính trên, cần phải có một nhân đức nền tảng : đó là đức bác ái yêu thương. + Bài Tin mừng . Năm A : Mt 2,13-15.19-23. Thánh Matthêu làm nổi bật vai trò của thánh Giuse trong gia đình Nazareth, với tư cách là gia trưởng, Thiên Chúa hướng dẫn và điều khiển gia đình Thánh gia qua vai trò của thánh Giuse. Vì thế, thiên thần Chúa báo mộng cho thánh Giuse phải đem hài nhi Giêsu và mẹ Người trốn sang Ai cập vì vua Hêrôđê đang tìm giết con trẻ Giêsu. Khi vua Hêrôđê băng hà, thiên thần Chúa lại báo mộng cho Giuse phải đem con trẻ và Mẹ Người trở về quê hương. Giuse đã mau mắn đem gia đình trở về và định cư tại Nazareth. Trong mọi bước đường gian nay buổi ban đầu, thánh Giuse hoàn toàn theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa, còn Đức Maria và Đức Giêsu hoàn toàn sống theo sự hướng dẫn của thánh Giuse. Do đó, đây là một gia đình trên thuận dưới hòa, trong ấm ngoài êm. Năm B : Lc 2,22-40. Thánh Luca tường thuật cho chúng ta việc Đức Maria và thánh Giuse lên đền thờ dâng con trẻ Giêsu cho Thiên Chúa theo Lề Luật. Và trong dịp này có hai người là ông già Simêon và cụ bà Anna nói tiên tri về tương lai của con trẻ. Qua sự kiện này, chúng ta cần lưu ý đến mấy điểm : a) Thánh gia là những người giữ Luật rất chín chắn. Thi hành đầy đủ mọi luật : như luật thanh tẩy người mẹ sau khi sinh con, luật cắt bì cho con trẻ, luật dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa, mặc dầu các Ngài không bị buộc phải giữ những luật này. b) Gia đình Thánh gia rất hiệp thông : lúc nào mọi thành phần trong gia đình cũng cùng chung nhau thi hành Luật. Lúc nào cũng có sự hiện diện của nhau. c) Cha mẹ rất kinh ngạc về tương lai của con trẻ Giêsu khi ông già Simêon và bà Anna tiên báo vận mệnh vừa bi thương vừa vinh quang của con. Tuy Đức Maria và thánh Giuse chưa hiểu hết mầu nhiệm con mình, nhưng các Ngài vẫn sẵn sàng tuân theo sự chỉ dẫn và sắp xếp của Thiên Chúa . Năm C : Lc 2,41-52. Theo lối giải thích của các thầy rabbi thì dường như luật buộc phải đi hành hương Giêrusalem mừng lễ Vượt qua hằng năm chỉ bắt đầu áp dụng lúc 13 tuổi và chỉ bắt buộc các nam nhân. Lễ Vượt qua kéo dài 7 ngày, nhưng luật buộc chỉ phải dự 3 ngày đầu thôi. Tuy thế, Đức Maria và thánh Giuse tham dự cho đến cuối :”Khi lễ đã chấm dứt…”. Như vậy, Thánh gia đã giữ luật rất chín chắn hơn cả mức đòi hỏi của luật. Sau kỳ lễ chấm dứt, các Ngài ra về nhưng Đức Giêsu còn ở lại Giêrusalem. Sau ba ngày đi tìm Đức Giêsu thì cha mẹ Ngài mới tìm thấy Con và các ngài hết sức bỡ ngỡ khi thấy Con mình đàng ngồi đàm đạo với các tiến sĩ luật. Được hỏi lý do thì Đức Giêsu chỉ trả lời với cha mẹ :”Con có bổn phận ở nhà của Cha Con”. Câu trả lời như thế khiến hai ông bà chưa hiểu hết ý nghĩa của nó. Dù là người con ngoan, vào lúc 12 tuổi, Đức Giêsu đã làm một cuộc “thoát ly gia đình” để ưu tiên sống cho một Đấng mà Ngài gọi là “Cha” bằng một giọng thân thương nhất. Qua thái độ và lời nói này, Đức Giêsu muốn chuẩn bị cho cha mẹ Ngài biết và chấp nhận rằng Ngài còn có bổn phận đối với Chúa Cha. Tuy thế, Ngài luôn là người con có hiếu với cha mẹ :”Sau đó, Ngài cùng cha mẹ trở về Nazareth và hằng vâng phục các Ngài”(Lc 2,52). C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA. Xây dựng gia đình hạnh phúc. I. LÝ DO CỦA NGÀY LỄ THÁNH GIA. Phong trào “gia đình Công giáo” đã có từ thế kỷ 16, nhưng đến cuối thế kỷ 19, Đức Giáo hoàng Lêô XIII cổ vũ mạnh và đặt ra “Lễ Thánh Gia” nhằm thúc giục mọi người theo gương thánh gia thất mà sống trên thuận dưới hòa để tạo lập những gia đình hạnh phúc. Năm 1994 Liên hiệp quốc cũng như Giáo hội chọn làm năm quốc tế về gia đình. Gia đình đang gặp cơn khủng hoảng, đang trên đà xuống dốc một cách trầm trọng. Gia đình là nền tảng của xã hội, mà nền tảng hư hỏng thì xã hội cũng sụp đổ. Do đó, Giáo hội muốn cho ta tổ chức lễ kính Thánh gia là để đề cao vai trò của gia đình và đưa ra mật mẫu gương tuyệt vời cho mọi người bắt chước, hầu củng cố lại gia đình và giúp cho xã hội thêm vững chắc. II. SỰ QUAN TRỌNG CỦA GIA ĐÌNH Chúng ta thấy mối liên hệ giữa gia đình và Hội thánh rất sâu sắc và nhiều đến nỗi có thể gọi gia đình công giáo là “Giáo hội tại gia” (Lumen gentium, số 11). Vì thế, công đồng Vatican II nói :”Sự lành mạnh của con người cũng như của xã hội tự nhiên và Kitô giáo liên kết chặt chẽ với tình trạng tốt đẹp của cộng đoàn hôn nhân và gia đình” (MV số 47). Trong tông huấn về gia đình “Familiaris Consortio”, Đức giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã khẳng định:”Gia đình là “trường học đầu tiên” dạy các đức tính xã hội mà không đoàn thể nào khác có thể vượt qua”(Gđ số 3). III. PHÂN NHIỆM TRONG GIA ĐÌNH. 1. Gia đình Thánh gia. Nhìn vào gia đình Thánh gia, theo bài Tin mừng hôm nay, ta thấy Đức Maria và Đức Giêsu không làm gì cả. Nói đúng ra, hai Đấng không làm gì khác ngoài việc làm theo sự chỉ đạo của thánh Giuse; còn thánh Giuse thì không làm gì khác ngoài việc làm theo sứ thần Thiên Chúa. Đúng như người ta nói :”Kim chỉ phải có đầu” (Tục ngữ). Có sự thuận ý từ trên xuống : Thiên Chúa điều khiển thánh Giuse, thánh Giuse lại điều khiển Đức Maria và Đức Giêsu mà không có điều gì trục trặc, các ngài đã thực hiện chữ “thuận” vì người ta thường nói : “Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn” (Tục ngữ). Theo đó, các Ngài đã thuận vợ, thuận chồng và cả con cũng thuận nữa. Tất cả đều hài hòa để qui hướng về một mối là “Thuận Thiên”như người ta nói :”Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong”, nhờ đó, gia đình có thể vượt qua được mọi sự khó khăn chủ quan cũng như khách quan. 2. Gia đình chúng ta. Gia đìønh Thánh gia là một mô hình tuyệt vời trong sự phân công các thành viên trong gia đình cho có lớp lang thứ tự, hợp tình hợp lý để tạo nên sự hài hòa trong các thành phần. Trong việc giáo dục gia đình, Đức Khổng Tử đã đưa ra một công thức giáo dục rất hay, đó là : quân, thần, phụ, tử, nghĩa là vua phải sống cho ra vua, tôi phải sống ra tôi, cha phải sống xứng với vai trò của cha, và con phải sống theo bậc làm con; bậc nào phải sống theo bậc ấy, đừng bao giờ đảo lộn. Trong gia đình có ba cấp thành viên : cha, mẹ và con cái. Chúng ta sẽ phân tích từng thành viên. a) Người cha trong gia đình. Người ta nói : Kim chỉ phải có đầu”. Vậy ai nên làm chủ gia đình ? Đương nhiên là người cha và người mẹ là hai vai trò quan trọng nhất. Còn nếu so sánh người cha với người mẹ thì có lẽ vai trò người cha quan trọng hơn vì người cha đồng thời cũng là người chồng; và theo thánh Phaolô thì “Người chồng là đầu của người vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội thánh”(Ep 5,23). Tại sao vậy ? Vì người cha có khả năng tốt hơn, có cái nhìn bao quát hơn, cả trong gia đình lẫn ngoài xã hội, có uy tín hơn để hướng dẫn các con. Gia đình nào có người cha tốt thì hầu như mọi sự trong nhà đều dễ trở nên tốt, vì người cha là cột trụ cho cả nhà dựa vào, là vị chỉ huy điều khiển mọi người, là người cầm lái đưa cả gia đình theo một hướng. Nếu ngược lại, thì người ta bảo :”nhà dột từ nóc”, gia đình bị hư hỏng từ đầu :”cá thối từ đầu”(Piscis a capite vivit et a capite faetet”. Hậu quả sẽ xẩy ra như người ta nói : Người trên ở chẳng chính ngôi, Làm cho kẻ dưới chúng tôi hỗn hào. (Ca dao) Nói thế không phải là một mình người cha điều khiển gia đình, vẫn có sự tham gia của người mẹ một cách rất nhẹ nhàng mà người ta không ngờ. Đôi lúc vì người cha thiếu khả năng nên người mẹ đã lấn át vai trò của người cha. Truyện vui : Hư danh. Con chạy về hỏi cha : - Ba ơi, Ba giảng cho con thế nào là “hư danh”. Người cha trả lời : - Hư danh hả ? Ví dụ như má con giới thiệu Ba là chủ gia đình !!! Hoặc truyện khác : Đôi tân hôn chưa sống với nhau được bao lâu, người chồng hiền lành, điệu bộ có vẻ cù lần, nhưng vợ tinh anh sắc xảo, cần phải có tác phong bảo vệ quyền bính, nhất là con nhà có đạo phải dựa vào Kinh Bổn mới có nền tảng vững chắc, kẻo người nội trợ lấn át quyền gia trưởng. - Thứ nhất dựa vào Kinh : Một hôm gặp cơ hội bị chị vợ lấn át, anh ta mới dõng dạc tuyên bố : Mày phải biết ngày chịu phép Hôn phối, cha giảng : chồng là gia trưởng, là chủ , chồng giữ địa vị thánh Giuse trong nhà Nazareth. Mày không nhớ trong kinh cầu ông thánh Giuse : thánh Giuse làm đầu thánh gia. Thế tao là đầu trong nhà, thay địa vị thánh Giuse, mày phải nhận điều đó mới được. - Thứ hai, sách Bổn dạy làm sao ? Sách bổn dạy :”Cha mẹ phải săn sóc con cái, chồng phải coi sóc vợ, chúa nhà phải coi sóc đầy tớ : bấy nhiêu “Đấng ấy” phải coi sóc kẻ thuộc về mình, hầu bằng cha mẹ phải săn sóc con cái vậy, chả gì tao cũng vào số “các đấng”. Đừng có mà khinh tao”. (Nguyễn duy Phượng, Thực chuộng vâng phục, 1969, tr 241-242) b) Người mẹ trong gia đình. Thiên Chúa đã dựng nên người nam nữ có bản chất riêng, khác nhau mà không dẫm chân lên nhau. Dường như trong gia đình đã vốn sẵn có một sự phân nhiệm tự nhiên cho hai người : - Nếu người chồng là rường cột chống đỡ gia đình, thì người vợ là sợi dây thân ái ràng buộc mọi người trong yêu thương hạnh phúc. - Nếu người chồng là người đứng mũi chịu sào, đặt kế hoạch, tạo điều kiện kinh tế cho gia đình, thì người vợ lại là người quản lý tốt, quán xuyến sắp xếp mọi công việc trong nhà và bảo vệ tổ ấm gia đình hơn mọi người khác. - Nếu người chồng là lý trí, là khối óc sáng suốt để chỉ huy, hướng dẫn gia đình như một ông thuyền trưởng chỉ huy con tầu, thì người vợ chính là người tài công khéo léo điều động con tầu đến mục tiêu đã định. - Nếu người chồng là biểu tượng của quyền uy, nghiêm nghị và cứng cỏi, là khuôn mẫu, là kỷ luật, thì người vợ là sự dịu dàng, mềm mỏng cởi mở để con cái được thoải mái, dễ chịu trong khuôn khổ gia đình. - Và sau cùng, nếu cần phải đối phó với một xã hội, một cuộc sống đa đoan, phức tạp, muôn mặt, khi sự cứng rắn và sức mạnh của người chồng không đủ đáp ứng, thì đã có sự khôn ngoan, tế nhị, mềm mỏng của người vợ bổ sung vào để đạt được kết quả. Quan niệm “Phu xướng phụ tùy” của xã hội ta ngày xưa không còn phù hợp nữa. Nếu chồng là giám đốc thì vợ phải là quản lý hay phụ tá giám đốc chứ không phải là tôi tớ :”Cha đã đặt người nữ làm trợ tá bất khả phân ly của người nam… Xin cho anh biết trọn niềm tin tưởng ở chị, nhìn nhận chị là người bình đẳûng và cùng được thừa hưởng sự sống là hồng ân Chúa ban”(Lời cầu lễ Hôn phối). Truyện : Tài tử Galicopter và người vợ. Một trong những ngôi sao điện ảnh nổi tiếng nhất trong thập niên 50 là nam tài tử Galicopter. Ôâng nổi tiếng không những vì tài nghệ diễn xuất mà còn vì cuộc sống hôn nhân mẫu mực của ông. Vào khoảng cuối đời, quằn quại trong thể xác, ông đã nói về Rochi người vợ đã chung sống với ông trong gần 30 năm như sau : “Rochi là một người đàn bà tuyệt vời. Nàng là một người vợ đã biết thích nghi với tính khí và công việc của tôi. Nàng cũng biết cảm thông với những lỗi lầm của tôi. Nhất là nàng đã biết ở cạnh tôi khi nàng có thể, mỗi khi tôi cần đến n àng. Nàng là người vợ đích thực”. Những lời khen tặng trên đây của tài tử Galicopter là một khẳng định rằng : người nắm giữ hạnh phúc gia đình, người nắm vai chủ động trong việc xây dựng hạnh phúc hôn nhân chính là người vợ. Dĩ nhiên sự thành công của hôn nhân là do sự hợp tác của hai vợ chồng. Nhưng người vợ vẫn giữ vai trò chủ yếu : “Đàn ông dựng nhà, đàn bà xây tổ ấm”(Tục ngữ). c) Con cái trong gia đình. Còn Đức Giêsu trong gia đình Nazareth đã được thánh Luca mô tả vài nét trong Tin mừng:”Và Ngài đã xuống với ông bà về Nazareth. Và Ngài hằng tùng phục hai ông bà. Còn Mẹ Ngài thì giữ kỹ hết các điều trong lòng bà. Và Đức Giêsu cứ tấn tới thêm về khôn ngoan, vóc dáng và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta”(Lc 2,51-52). Đức Giêsu tuy là Thiên Chúa, nhưng với cương vị làm con, Ngài vẫn phải vâng phục thánh Giuse và Đức Maria với tâm tình con thảo. Sách Huấn ca hôm nay dạy ta :”Ai kính sợ Thiên Chúa thì hiếu thảo với cha mẹ, ai thờ cha kính mẹ thì sẽ bù đắp lỗi lầm và sẽ được đền bù tội lỗi”. Hiếu thảo đối với cha mẹ không phải là một tình cảm tự nhiên mà còn là một điều luật của Chúa:”Ngươi phải hiếu thảo với cha mẹ, như Thiên Chúa ngươi đã truyền dạy, để được sống lâu và được hạnh phúc trên phần đất Thiên Chúa dành cho ngươi”(Đnl 5,16). Ngày xưa khi cắp sách đi học, các em nhỏ đã được đọc trong sách Quốc văn giáo khoa thư một bài học căn bản về đạo làm con : Công cha như núi Thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho trọn chữ hiếu mới là ĐẠO CON. Không thiếu gì những bậc danh nhân trên thế giới đã làm gương cho chúng ta về lòng thảo hiếu đối với cha mẹ, ngay khi các ngài còn ở bậc cao trong danh vọng.
Truyện : Nhà bác học Louis Pasteur. Ngày 14.07.1883, hội đồng thành phố Dole quyết định đặt tấm đồng ghi danh trên cửa nhà mà Pasteur đã sinh ra. Hôm ấy, trong bài đáp từ cao thượng, nhà bác học trứ danh đã để lòng trào ra trên nỗi biết ơn cha mẹ : ‘Ôi ! hỡi cha con, mẹ con ! Ôi, hỡi những người thân yêu đã chết ! Các ngài đã sống bình dị quá trong căn nhà nhỏ bé này, con đã chịu ơn tất cả bởi các ngài. Những nhiệt tình của người, hỡi mẹ can đảm của con, mẹ đã chuyển nó cho con. Nếu con bao giờ cũng đã nối kết vinh quang khoa học vào vinh quang tổ quốc, chính là vì con đã thấm nhuầãn những cảm tình mà mẹ phấn khích ở trong con. Và còn người, hỡi cha thân yêu, mà đời sống cũng nặng nhọc như nghề nghiệp, cha đã tỏ cho con biết đức kiên nhẫn trong cố gắng lâu dài có thể làm được những gì… Con chúc tụng cả hai, hỡi cha mẹ thân yêu, cho cuộc sống con người, và xin để cho con hướng về các ngài cái vinh hạnh mà người ta hiến lên căn nhà này ngày hôm nay”( Bùi Đức, Vinh quang bà mẹ, 1959, tr 59-60). IV. TRUNG THÀNH TRONG HÔN NHÂN. Còn một vấn đề rất quan trọng trong hạnh phúc hôn nhân mà ngày nay người ta đã coi thường, đó là trung thành trong đời sống hôn nhân. Ngày xưa người ta chỉ chú trọng vào sự chung thủy của người phụ nữ màø không đề cập đến đàn ông. Người ta đã có một cái nhìn thiên lệch về phụ nữ với quan niệm “chồng chúa vợ tôi”. Người đàn bà trong lễ giáo Khổng Mạnh phải tuyệt đối chung thủy với chồng mình. Họ phải giữ cái đạo “Tam tòng” : Tại gia tòng phụ Xuất giá tòng phu. Phu tử tòng tử Nghĩa là : người con gái ở nhà thì theo cha, đi lấy chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con. Chữ “chung thủy” của người xưa thật đáng ca tụng, nhưng tôi thấy nó rất thiên lệch và không công bằng. Lễ giáo của Khổng Mạnh đã áp đặt chặt chẽ trên người đàn bà, trong khi đó thì người đàn ông được thả lỏng : Trai thì năm thê bảy thiếp. Trong khi đó thì : Gái chính chuyên chỉ có một chồng. Và nếu có một vợ một chồng thì theo sự diễn tả một cách châm biếm, đó là : Nhất phu nhất phụ Mỗi mụ mỗi nơi. Còn thời nay thì sao ? Đối với xã hội Tây phương thì chữ “chung thủy” thời nay đã biến mất. Người ta thay vợ đổi chồng như thay áo theo phương châm “Hay thì ở, dở thì đi”. Có nơi số đôi hôn phối ly dị lên tới 50% hay hơn nữa. Các hôn ước không còn giá trị nữa. Chính vì thế mà gia đình bị lung lay tận nền tảng, tận gốc rễ để rồi đi đến chỗ đổ vỡ vì những lý do không đâu. Truyện : Trên chuyến xe đò. Có một lần trên chuyến xe đò đi Sàigòn, tôi được nghe mẩu tâm sự vụn giữa mấy bà mấy cô với nhau. Bà thì than rằng chồng của mình bê bối. Bà thì bực tức thấy ông nhà đèo bòng mà chẳng làm gì được. Nói ra thì xấu thiếp hổ chàng, còn để vậy thì ấm ức trong lòng. Sau cùng, có một bà kết luận : chỉ có mấy bà công giáo là sướng. Đạo của họ cấm chỉ việc lang bang. Dù sao chăng nữa, thì họ cũng vẫn một lòng một dạ với nhau. Nghe mẩu tâm sự ấy, tôi cũng thấy mừng vì từ xưa và cho đến nay, sự chung thủy, một vợ một chồng vốn dĩ đã là nét son của hôn nhân công giáo. Vì ai cũng biết hôn nhân công giáo là một khế ước song phương được ký kết giữa hai người nam và nữ. Do đó, hôn nhân của công giáo có hai đặc tính là “đơn nhất và vĩnh viễn”. Không ai có thể hủy bỏ hôn ước khi cả hai người còn sống vì “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”(Mc 10,9). Nếu chúng ta đòi buộc người bạn đời phải tuyệt đối trung thành với mình, thì chúng ta cũng phải có bổn phận phải tuyệt đối trung thành với người bạn đời như thế. Chúng ta không thể nào chấp nhận những chia sẻ trộm vụng của người bạn đời thì chúng ta cũng không được chia sẻ tình yêu một cách thầm lén cho kẻ khác không phải là bạn đời của mình. Nếu như hành vi thầm lén vụng trộm của chúng ta bị đổ bể, bởi vì “đi đêm lắm có ngày gặp ma”… thì lúc bấy giờ chắc chắn dư luận sẽ không buông tha chúng ta và gia đình ta chắc chắn sẽ gặp nhiều sóng gió. Để kết luận, chúng ta hãy dâng lên Thánh Gia lời cầu xin cho các gia đình : Lạy Chúa Giêsu,/ chúng con xác tín rằng: / Hôn nhân và gia đình là công trình sáng tạo của Thiên Chúa,/ công trình của yêu thương,/ khôn ngoan và thanh thiện./ Chúng con tin rằng,/ Chúa muốn và Chúa luôn ban ơn,/ để hôn nhân được hạnh phúc,/ trong sự duy nhất và bền bỉ,/ trong việc truyền sinh và phát huy sự sống. Lạy Chúa,/ Chúa đã yêu thương mà nâng hôn nhân lên hàng Bí tích./ Xin Chúa cho các đôi vợ chồng sống trung thành với nhau,/ cho cha mẹ biết ý thức trách nhiệm giáo dục con cái,/ cho con cái biết vâng phục và yêu mến cha mẹ./ Xin Chúa làm cho các thế hệ trẻ,/ tìm được nơi gia đình sự nâng đỡ chắc chắn cho giá trị làm người của ho,ï/ và được trưởng thành trong Chân lý và Tình thương. Lạy Thánh gia Nazareth,/ là gương mẫu của đời sống thánh thiện,/ công bình và yêu thương./ Xin cho gia đình chúng con,/ trở nên nơi đào tạo nhân đức,/ trong hiền hòa,/ phục vụ và cầu nguyện./ Xin cho chúng con xây dựng gia đình thành mối an ủi cho cuộc đời đầy thử thách./ Xin cho chúng con biết làm cho mọi người trong gia đình,/ đều được thăng tiến để góp phần vào việc phát triển xã hội,/ và cộng tác trong việc xây dựng Giáo hội. |