Lửa rất mềm mà cũng rất mạnh. Một đốm lửa
có thể dập tắt bằng một hơi thổi nhẹ hoặc làn gió nhẹ, nhưng ngọn lửa
lớn thì rất khó dập tắt. Lửa càng chia sẻ càng tăng thêm nhiều. Và “lửa
yêu” cũng vậy!
Máu Thánh của Đức Kitô đã đổ ra vì thương xót và cứu độ nhân loại. Nhờ
đó mà có nhiều người không “tham sanh, úy tử”, dám liều mạng sống vì
Chúa. Đó là những nhân chứng đức tin, là các vị tử đạo. Chính máu các
Thánh Tử Đạo là hạt giống sinh các tín hữu. Việt Nam là quốc gia có hằng
trăm ngàn nhân chứng đức tin đã xả thân vì đức tin Kitô giáo. Các ngài
cũng là những người có cuộc sống bình thường như chúng ta, nhưng có cách
sống khác thường, dù thời đó Việt Nam mới nhận biết đức tin Kitô giáo
chưa được bao lâu.
Thánh Anrê Phú Yên (1625-1644) mới rửa tội được 4 năm, thế nhưng đức tin
của “chàng trai trẻ” đã trưởng thành nên mới có thể thí mạng vì Đức Kitô
khi mới 19 tuổi đời. Thánh Anê Lê Thị Thành (1781-1841), thường gọi bà
Đê, là một bà mẹ Công giáo bình thường, nhưng lại có một đời sống đức
tin khác thường, để rồi dám chết vì Đức Kitô. Biết tin vua Thiệu Trị ra
lệnh xử trảm, Thánh Matthêu Lê Văn Gẫm (1813-1847) vẫn thản nhiên nói:
“Tôi có ăn trộm ăn cướp gì đâu mà sợ, mà buồn. Được chết vì đạo là điều
tốt lắm”.
Và còn hằng trăm ngàn người Công giáo Việt Nam đã chết vì Đạo Chúa, điều
mà Đức Kitô đã xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình
thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13).
Và đó cũng là một trong Bát Phúc: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công
chính, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5:10). Chúng ta quen đọc kinh Tám Mối
Phúc Thật: “Phúc thay ai chịu khốn nạn vì đạo ngay ấy là phúc thật, vì
chưng sẽ được Nước Đức Chúa Trời làm của mình vậy”.
Với người đời, những cái chết đó là dại dột, là ngu xuẩn; nhưng với
Thiên Chúa lại là sự khôn ngoan. Chúa Giêsu đã giải thích: “Anh em đừng
sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em
hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” (Mt 10:28).
Thật vậy, tác giả sách Khôn Ngoan nói: “Linh hồn người công chính ở
trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa” (Kn 3:1).
Đối với những người yêu Chúa thì đau khổ chẳng nghĩa lý gì.
Như kiểu nói của người Việt là “gậy ông đập lưng ông”, tác giả sách Khôn
Ngoan nói: “Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi; khi họ ra đi, chúng cho
là họ gặp phải điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng ta, chúng tưởng là họ
bị tiêu diệt, nhưng thực ra, họ đang hưởng an bình. Người đời nghĩ rằng
họ đã bị trừng phạt, nhưng họ vẫn chứa chan hy vọng được trường sinh bất
tử” (Kn 3:2-4). Tất cả xem chừng là những nghịch lý, nhưng lại là
nghịch-lý-thuận. Mọi khổ hình dã man nhất của loài người đối với các
nhân chứng đức tin cũng chỉ là cách “chịu sửa dạy đôi chút”, và rồi “họ
sẽ được hưởng ân huệ lớn lao” (Kn 3:5). Đó mới là mục đích của họ!
Quả thế, Thiên Chúa đã thử thách họ và thấy họ xứng đáng với Ngài: “Ngài
đã tinh luyện họ như người ta luyện vàng trong lò lửa, và đón nhận họ
như của lễ toàn thiêu. Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực
sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy” (Kn 3:6-7). Rồi họ sẽ được
quyền “xét xử muôn dân và thống trị muôn nước”, chính “Đức Chúa sẽ là
vua của họ đến muôn đời” (Kn 3:8). Thiên Chúa giúp họ lật lại thế cờ,
chuyển bại thành thắng, đúng như lời Chúa hứa: “Những ai trông cậy vào
Ngài, sẽ am tường sự thật; những ai trung thành, sẽ được Ngài yêu thương
và cho ở gần Ngài, vì Ngài ban ân phúc và xót thương những ai Ngài tuyển
chọn” (Kn 3:9).
Tác giả Thánh vịnh vui mừng trong niềm tín thác: “Chúc tụng Chúa là núi
đá cho tôi nương ẩn, là Đấng dạy tôi nên người thiện chiến, luyện thành
tay võ nghệ cao cường” (Tv 144:1). Tại sao? Vì “Chúa là đồng minh, là
đồn luỹ che chở, là thành trì bảo vệ, là Đấng giải thoát tôi. Chúa là
khiên mộc cho tôi ẩn núp, Người bắt chư dân quy phục quyền tôi” (Tv
144:2). Chẳng có gì có thể làm cho người tôi trung phải khiếp sợ, họ vẫn
thản nhiên tôn thờ Chúa và vững tin: “Lạy Chúa Trời, xin dâng Chúa một
bài ca mới, thập huyền cầm, con gảy đôi cung. Chính Ngài cho các vua
thắng trận, cứu mạng Đa-vít, kẻ trung thần, khỏi lưỡi gươm ác nghiệt”
(Tv 144:9-10).
Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống
lại được chúng ta?. Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha,
nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ
nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8:31-32).
Thánh nhân tiếp tục chất vấn một loạt: “Ai sẽ buộc tội những người Thiên
Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ
kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại,
và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta? Ai có thể
tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân,
khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8:33-35). Chính
những câu hỏi đó đã ngầm chuyển tải những câu trả lời.
Có lời chép: “Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như
bầy cừu để sát sinh”. Nhưng trong mọi thử thách ấy, “chúng ta toàn thắng
nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8:37). Thánh Phaolô tin chắc: “Cho dầu
là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay
tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ
một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình
yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm
8:39). Tất cả chỉ là “số không”, và chẳng gì cản bước hoặc ngăn cấm được
người ta yêu mến Thiên Chúa. Lúc này “lửa yêu” đã bùng cháy, không gì có
thể dập tắt!
Trong một lần rao giảng, Đức Giêsu nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi,
phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23).
Điều kiện “theo Chúa” vừa dễ, vừa khó. Lửa yêu của ai mạnh thì là dễ,
nhưng lửa yêu của ai yếu thì là khó. Chính người đời cũng ví von: “Tình
yêu trong cách xa như ngọn lửa trong gió: Gió thổi tắt ngọn lửa nhỏ,
nhưng thổi bùng ngọn lửa lớn”.
Chúa Giêsu nói thêm: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai
liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9:24).
Đặc biệt là cách đặt vấn đề của Ngài: “Người nào được cả thế giới mà
phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?” (Lc
9:25). Cách nói “nghi vấn xác định” là cách xác định mạnh mẽ hơn.
Rồi Ngài kết luận: “Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi thì Con Người
cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình,
của Chúa Cha và các thánh thiên thần” (Lc 9:26). Rất rõ ràng. Rất mạch
lạc. Rất dễ hiểu. Nhưng Ngài vẫn tôn trọng tự do của mỗi người, chứ Ngài
không hề ép buộc bất kỳ ai.
Lạy Thiên Chúa, xin thêm đức tin-cậy-mến và lòng can đảm cho chúng con,
và giúp chúng con biết noi gương sáng các nhân chứng đức tin là tiền
nhân của chúng con. Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xin nguyện giúp cầu
thay chúng con hôm nay và mãi mãi, nhất là trong Năm Đức Tin này. Chúng
con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng
con. Amen.
|