Chúa Nhật Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ - Năm C
ĐỨC GIÊSU LÀ VUA VŨ TRỤ
Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP.

 

          Hôm nay, Chúa nhật cuối năm Phụng vụ, Giáo hội dành để biệt kính Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ. Như vậy, năm Phụng vụ được mở đầu bằng 4 Chúa nhật Mùa Vọng, chuẩn bị đón nhận Con Chúa giáng trần; và Chúa nhật 34 thì tôn kính Đức Giêsu là vua cao cả của vũ hoàn. Nhưng danh hiệu và vương quyền của Ngài như thế nào ? Dù Kinh Thánh kể rằng Ngài là “dòng dõi” vua Đavít, nhưng phải chăng Ngài cũng chỉ tương tự như Đavít ?

 

          Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca mô tả cảnh Đức Giêsu bị treo trên cây thập giá giữa hai tên trộm cướp và bị mọi người nhạo báng. Hình ảnh này tạo cho ta một cảm tưởng rằng Ngài dường như bị thất thế, bị kết án như một tên tử tội, bị lăng mạ bởi chính các “thần dân” của mình. Nhưng với con mắt đức tin chúng ta thấy chính lúc ấy là lúc thành công, chính trong lúc ấy Ngài được Chúa Cha phong vương cho Ngài và Ngài đã làm lễ đăng quang trên chính thập giá đó. Ngài đã thành công ở chỗ hy sinh mạng sống mình để cứu chuộc loài người, đã hòa giải nhân loại với Thiên Chúa. Vì thế, Thiên Chúa Cha phong vương cho Ngài và đặt mọi sự dưới chân Ngài để Ngài làm bá chủ muôn loài. Ngài thực sự là vua và còn là vị Vua Cao Cả, độc nhất vô nhị, mãi mãi vượt trên mọi vua chúa ở trần gian và triều đại Ngài sẽ vô cùng cô tận.

 

          Khi sinh thời, Đức Giêsu đã phán :Ta là đường, là sự thật và là sự sống”, ai theo Ngài thì không sợ bị lạc lối. Vì thế, chúng ta hãy công nhận vương quyền của Ngài, tin theo Ngài và góp phần xây dựng vương quốc Ngài bằng đời sống tin yêu và phục vụ. Con đường về Nước Trời chính là nỗ lực chu toàn bổn phận đối với bản thân, gia đình và xã hội. Không có bổn phận nào là đơn giản và dễ dãi. Tuy nhiên, Thiên Chúa luôn thấu hiểu và phù trợ ta qua lời chuyển cầu của Đức Maria và các thánh. Đức Kitô đã rộng mở cánh cửa tình yêu bằng hy sinh trọn vẹn của Ngài cho chúng ta.

 

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

 

           + Bài đọc 1 : 2Sm 5,1-3.

 

          Đoạn này thuật lại cuộc phong vương lần thứ hai cho Đavít. Sau khi vua Saulê chết, tiên tri Samuel đã nhân danh Thiên Chúa xức dầu cho Đavít để ông làm vua các chi tộc ở Giuđêa. Sau một thời gian, vì mộ mến tài đức của Đavít, các chi tộc miền Bắc  vốn trung thành với dòng tộc vua Saulê cũng phong Đavít làm vua nữa. Từng bước một Đavít đã trở nên vua của 12 chi tộc Israel. Nhờ bản lĩnh hiếm có, ông đã giữ cho Israel được thống nhất.

 

          Đức Kitô là Đavít mới nhờ thập giá  sẽ kiện toàn sự thống nhất hoàn hảo và mãi mãi của dân Thiên Chúa.

 

          + Bài đọc 2 : Cl 1,12-20.

 

          Thánh Phaolô trích dẫn một bài thánh thi trình bầy địa vị của Đức Giêsu Kitô. Theo đoạn thư này, tư tưởng được trình bầy cho tín hữu Côlôssê như sau :

          - Phải cảm tạ Thiên Chúa Cha, Đấng đã qui tụ họ về Vương quốc của Con Người.

          - Địa vị tối thượng của Đức Kitô : Ngài vượt trên vũ trụ vì Ngài là Đấng sinh thành ra vũ trụ và cùng đích của muôn loài.

          - Đức Giêsu là nguồn mạch cứu độ vì Ngài đã làm hòa vũ trụ với Thiên Chúa.

 Như vậy Ngài đóng vai trò trung tâm và là Đấng trung gian duy nhất thâu tóm mọi kế hoạch của Thiên Chúa Cha.

 

          + Bài Tin mừng : Lc 23,35-43.

 

          Trong bài trình thuật này, thánh Luca mô tả Đức Giêsu chịu treo trên thập giá với đám khán giả hỗn độn.

          Phía dưới chân thập giá có những khán giả :

          - Dân chúng nhìn một cách bàng quan như không liên quan gì đến mình.

          - Các thủ lãnh Do thái chế nhạo :”Hắn đã cứu người khác thì hãy cứu lấy mình đi, nếu hắn là Đức Kitô”.

          - Lính canh cũng chế diễu :”Nếu ông là vua dân Do thái thì hãy cứu lấy mình đi”.

          Trên đầu Ngài có bảng chữ : Đây là vua dân Do thái (INRI).

          Bên cạnh Ngài là hai tên trộm : một tên hùa theo đám đông chế nhạo Ngài, tên kia thì công nhận Ngài là vua.

          Hình ảnh nói lên hai tên trộm lành và dữ này cho ta thấy rằng  ơn cứu độ đến từ Đấng bị đóng đinh. Việc Đức Kitô nhận người trộm lành vào vương quốc Ngài, là dấu chỉ tất cả các tín hữu tin vào Chúa sẽ được vào Nước Trời.

 

          Qua cái chết của Đức Kitô,”Vua người Do thái”, Thiên Chúa đã làm cho Đức Kitô trở nên nguồn suối ơn cứu chuộc cho cả và loài người ta.

 

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

 

          Đức Giêsu là Vua chúng ta

 

I. ĐỨC GIÊSU LÀ VUA.

 

          1. Kinh Thánh hé mở cho chúng ta.

 

          Trong chu kỳ năm Phụng vụ, đã có ba ngày Giáo hội long trọng nhắc đến tước hiệu “Vua” của Đức Kitô, tuy không rõ ràng tôn vinh tước hiệu ấy..

 

          - Lần thứ nhất, trong ngày lễ Hiển linh :”Khi Đức Giêsu sinh ra tại Belem, thời vua Hêrôđê trì vì, có mấy nhà đạo sĩ từ phương đông đến Giêrusalem, và hỏi :”Đức vua dân Do thái mới sinh ra hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lậy Người”(Mt 2,1-2).

 

          - Lần thứ hai trong Tuần Thánh, với việc Đức Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem (Mc 11,1tt). Rồi trước tòa án Philatô, ông cho Đức Giêsu ngồi ở Gabata, ghế dành riêng cho quan tòa. Như vậy, vô tình Philatô công nhận Ngài là vua. Chính Ngài cũng khẳng định :”Tôi là vua dân Do thái”(Ga 18,37). Philatô cũng truyền cho người ta  viết tấm bảng trên đầu thập giá với hàng chữ :”Giêsu Nazareth Vua dân Do thái”(Ga 19,19)

 

          - Lần thứ ba, trong ngày Đức Giêsu lên trời, Hội thánh tôn vinh vua oai phong đi vào vinh quang và chờ đợi ngày Người lại đến (Mc 16,19) để phán xét kẻ sống và kẻ chết trong ngày cánh chung.

 

          2. Nhiều người công nhận Ngài là vua.

 

          Trong đoạnTin mừng ta thấy người ta vô tình hay hữu ý nhận Đức Giêsu là vua : Dân chúng nói Ngài là vua – Kỳ mục nói Ngài là vua – Philatô viết Ngài là vua – Kẻ trộm lành cũng tuyên xưng Ngài là vua – cùng cả và trời đất cũng nói lên Ngài là vua, thì chắc chắn Ngài là vua và Ngài phải là vua nữa.

 

Chúng ta có thể trích ra vài câu Kinh Thánh để làm chứng :

          - Câu 37 : “Nếu ông là vua dân Do thái, ông hãy cứu mình đi”.

          - Câu 38 : Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy lạp, La tinh và Do thái như sau :”Người này là vua dân Do thái”.

          - Câu 42 : “Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi”.

          Các câu này nói lên vương quyền của Đức Kitô, Luca nhắc đi nhắc lại để nêu cao vương quyền đó.

 

          3. Ngày đăng quang của Đức Giêsu .

 

          Nghi thức phong vương thường là thầy thượng phẩm nhân danh Thiên Chúa xức dầu tấn phong ai làm vua trước mặt đông đảo dân chúng chứng kiến và nhiệt liệt tung hô (Bài đọc 1).

          Nhưng, nghịch lý thay, Đức Giêsu được phong vương trên thập giá với bản án trên đầu :”Đây là vua dân Do thái”.

          Ngai vàng là cây thập giá. Từ trên cao, Chúa nhìn xuống thần dân, giang hai tay ra  để ôm lấy dân Ngài.

          Vương miện là vòng gai cuốn trên đầu.

          Ao cẩm bào là thân hình trần trụi ô nhục.

          Những người tham dự : kẻ thù, Mẹ và một số môn đệ.

          Tiếng tung hô là những tiếng đả đảo :”đóng đinh nói đi”, và những tiếng khóc nức nở của người thân.

          Cảnh trí : núi Sọ và bầu trời u ám.

          Diễn từ nhận chức: “Lạy Cha xin hãy tha cho họ” và sau cùng :”Mọi sự đã hoàn tất”.

 

          Trước đây Đức Giêsu đã từng tuyên bố :”Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta”(Ga 12,32). Trên thập giá, kẻ trộm lành đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu thế, là Vua vũ trụ, anh đã nhận ra tội lỗi của mình, tỏ lòng sám hối và đã thưa với Đức Giêsu :”Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi”(Lc 23,42) và như vậy anh muốn thuộc về vương quốc Thiên Chúa. Và Đức Giêsu hứa với  anh:”Ta bảo thật ngươi :”Ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”(Lc 23,43).

 

II. THẾ NÀO LÀ VUA ?

 

          Theo quan niệm Nho giáo, người cầm quyền chính trị là vua. Vua được gọi là Con Trời hay Thiên tử.

          Chữ VƯƠNG (Vua) gồm có 3 nét ngang và một nét dọc, Ba nét ngang là chữ Tam hay quẻ Càn, tượng trưng cho Tam tài hay ba đạo : Thiên đạo, Địa đạo và Nhân đạo. Sổ dọc đứng giữa ngụ ý Vua là kẻ thụ mệnh Trời, đứng ra dung hòa ba đạo : Trời, Đất và người. Dung hòa ba đạo ấy  thành một duy nhất. Khổng Tử nói :”Nhất quán tam vi vương” là thế.

 

          Du khách đến Huế không thể quên được đàn Nam giao, cũng như đến Bắc kinh  không thể bỏ qua Điện Trời. Chính nơi đây, nhà vua thay mặt toàn dân tế Trời.

 

          Tại Huế, đàn Nam giao, cửa Ngọ môn và Điện Thái hòa cùng nằm ngay trên một đường thẳng.

          Điện Thái hòa là nơi vua cùng triều đình lo việc phục vụ dân chúng.

          Cửa Ngọ môn xây hướng về nam, nơi mặt trời lên cực điểm, vào giờ Ngọ, tức là 12 giờ trưa, giờ mặt trời “đứng bóng”, giờ mà hình và bóng nên một.

          Từ điện Thái Hòa, qua Ngọ môn, vua sẽ tiến thẳng về phía nam để đến đàn Nam giao, thay dân tế trời. Sau khi ăn chay nằm đất, vua sẽ tiến lên lễ đàn.  Trước tiên vua sẽ lên đàn hình vuông tượng trưng đất, sau đó mới lên đàn hình tròn, tượng trưng Trời để dâng lễ tế.

 

          Đức Kitô Vua vũ trụ, Vua của chúng ta, là chính Mặt Trời đúng ngọ, là Mặt Trời lên cực điểm, và Ngài cũng muốn chúng ta nên một với Ngài, như hình và bóng nên một vào giờ chính ngọ.  Đức Kitô, Vua vũ trụ, Vua chúng ta đã thay chúng ta  dâng lễ cho Chúa Trời, và nay, bên cạnh Chúa Cha, vẫn hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta :”Đức Giêsu, chính vì Người hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi mãi. Do đó, Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Người hằng sống để chuyển cầu cho chúng ta”(Dt 7,24-25).

 

          Người Việt nam chúng ta rất kính trọng vua. Người dân mình kính vua vì vua là “Thiên Tử”, là Con Trời, là người có “thiên mệnh”, là “Dân chi phụ mẫu” – cha mẹ của dân. Một vị vua sẽ được kính tôn là minh quân và thiên tử  nếu vị ấy thực sự thương dân như cha mẹ thương con, xả thân lo cho dân cho nước như cha mẹ hy sinh cho con cái, đôi khi còn dám nghĩ “hay để trẫm nộp mình cho giặc để cứu muôn dân” ? như vua Trần nhân Tông xưa kia.

 

          Vua Kitô của chúng ta không những là “Thiên tử” trong tước hiệu, mà còn là “Con Trời” trong bản tính.  Mừng kính, tôn vinh Chúa Giêsu là vua vũ trụ, chúng ta cũng được mời gọi làm vua như Ngài. Chúng ta là Alter Christus (Chúa Kitô khác), là Đức Kitô toàn thể, là nhiệm thể Đức Kitô. Chúng ta có nhiệm vụ hầu hạ mọi người, dấn thân phục vụ đồng loại.

 

III. ĐỨC GIÊSU LÀ VUA CHÚNG TA.

 

          1. Tại sao lại gọi Đức Giêsu là vua ?

 

          Chúng ta thường nghe người ta nói : Sư tử là vua vì nó là con vật mạnh mẽ nhất trong muôn loài thú. Ta cũng thấy người ta gọi ông vua dầu lửa, vua thép, vua nhạc rock… Đó là những nhân vật tài giỏi nhất, làm bá chủ về một lãnh vực nào đó. Tương tự như thế, Đức Giêsu được gọi là “vua”, vì Ngài là một con người hoàn hảo nhất, cao thượng nhất, tài giỏi và quyền năng nhất. Nhờ đã hạ mình vâng lời chịu chết, một cái chết thập giá, mà Ngài đã được Thiên Chúa siêu tôn và ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu là :”Đức Giêsu Kitô là Chúa”(x. Pl 2,8-9).

 

          2. Vương quyền của Đức Kitô.

 

          Thiên Chúa đã đặt Đức Giêsu làm vua vũ trụ, đặt mọi sự dưới quyền điều khiển của Ngài. Ngài là vua vĩnh cửu và truyệt đối, vương quyền Ngài không có giới hạn. Chúng ta vẫn tuyên xưng trong kinh Tin kính:”Người lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha và Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Nước Người sẽ không bao giờ cùng”! Vương quốc của Ngài không bị giới hạn bởi không gian và thời gian như các vua chúa ở trần gian này, nước Ngài là nước thiêng liêng và vĩnh cửu.

 

Truyện : Vua Cảnh Công nước Tề.

         

Vua Cảnh Công nước Tề, một hôm lên chơi núi Ngưu Sơn. Nghĩ rằng có ngày sẽ phải chết và giang sơn gấm vóc lại lọt vào tay kẻ khác, vua liền trào nước mắt thương tiếc. Đoàn tùy tùng thấy vua khóc cũng khóc theo. Duy chỉ có An Tử là chúm miệng cười. Vua chau mày hỏi :

          - Tại sao ai cũng khóc cả, mà nhà ngươi lại cười ?

          An Tử trả lời :

          - Nếu các đời vua trước mà còn sống, thì vua ngày nay hẳn còn phải mặc áo tơi nón lá. Nhờ thế sự thăng trầm mà nay đến lượt vua được mặc áo gấm, đội mũ ngọc. Thế mà vua lại khóc. Thấy Đấng làm vua bất nhân, bầy tôi siểm nịnh, tôi không cười sao được ?

 

          3. Đức Giêsu là vua thế nào ?

 

          Cứ nhìn vào lịch sử nhân loại sẽ thấy vua Trụ và vua Kiệt là những hôn quân, một Tần thủy Hoàng bạo ngược đến độ đốt sách, giết các nhà trí thức, học trò giỏi trên 2000 mạng để dễ bề cai trị; một Néron hung tàn vì thỏa mãn lòng kiêu căng  đã đốt sạch đế đô La mã để có cớ xây lại huy hoàng hơn; một Napoléon tham vọng đã đẩy hàng triệu người vào cái chết và gần đây một Hitler hiếu chiến hiếu sát đã lôi kéo cả thế giới vào một cơn lốc chém giết, tàn phá nhau kinh khủng. Và biết bao vua chúa quan quyền khác đã cai trị thần dân bằng cách bắt họ lụy phục mình hơn là phục vụ họ.

 

          Vương quyền dầu lớn lao, tuyệt đối,  nhưng Đức Giêsu trước sau chỉ có một đường duy nhất là yêu thương và phục vụ mà thôi. Chính vì tình yêu vời vợi như thế, Đức Kitô đã chấp nhận  chết cho thần dân của mình. Ngài hiến thân hy sinh cho cả Hội thánh, Như vậy, qua cuộc hiến tế của Ngài, chúng ta nhận ra, vua Kitô không chỉ là Vua hiền lành, nhân từ, Ngài còn là vị vua hạ mình đến tận cùng. Đến nỗi khi nhìn ngắm  sự hạ mình của Ngài trong cuộc hiến tế thương đau, ta chỉ còn biết lặng người đi, chiêm ngắm, thờ lạy, cảm tạ, chúc tụng, nguyện một lòng mang ơn Ngài và trung thành theo Ngài đến trọn cuộc đời.

 

Truyện : Chiếc nhẫn.

 

          Cách đây không lâu, những người thợ lặn đã phát hiện ra một con tầu  bị chìm cách đây 400 năm ngoài biển khơi ở vùng phía bắc Ireland. Một trong những kho tàng họ đã tìm thấy trên tầu là một chiếc nhẫn cưới của một người đàn ông. Khi họ đánh bóng, họ thấy trên mặt chiếc nhẫn khắc hình một bàn tay  đang nắm giữ một trái tim. Phía dưới có khắc hàng chữ như sau :”Em không còn gì hơn để cho anh”(I have nothing more to give you). Trong tất cả những kho tàng đã tìm thấy trên con tầu, không có sự gì làm cảm động những người thợ lặn cho bằng chiếc nhẫn và những lời cao đẹp của tình yêu đó.

 

          Hàng chữ được khắc trên chiếc nhẫn –“Ta không còn gì để cho con” – có thể được đặt trên thập giá của Đức Giêsu. Vì từ trên thập giá đó, Ngài đã cho chúng ta tất cả những gì Ngài có. Ngài cho chúng ta tình yêu và mạng sống. Ngài cho chúng ta tất cả những gì một người có thể trao ban cho người mình yêu :”Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu”(Ga Ga 15,13). Chúa Giêsu Kitô là Vua Tình yêu.

 

          4. Ai là vị vua xứng đáng nhất ?

 

          Trong bài đọc 2, thánh Phaolô trích dẫn một bài thánh thư trình bầy địa vị của Đức Giêsu Kitô : Đức Giêsu là hình ảnh của Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu mà muôn vật được tạo thành và nhờ cái chết của Ngài trên thập giá mà mọi người được giao hòa lại với Thiên Chúa :

 

          “Thiên Chúa đã làm cho Đức Kitô chỗi dậy từ cõi chết và đặt bên hữu Ngài trên trời. Như vậy, Ngài đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội thánh; mà Hội thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn”(Ep 1,20-23).

 

          Như thế, Đức Giêsu là vua tối cao trên toàn thể vũ trụ, Ngài là người xứng đáng nhất để nhận lấy cái vinh dự đó.

 

Truyện : Người xứng đáng nhất.

 

          Vào thời thập tự viễn chinh, nhằm bảo vệ thánh địa và đảm bảo an ninh cho khách hành hương, vua Philipphê của nước Pháp đã làm một cử chỉ lạ thường. Trước mỗi lần lên đường, ông tháo gỡ triều thiên đang đội trên đầu, rồi đặt nó lên một chiếc bàn và ghi dòng chữ như sau :”Dành cho người nào xứng đáng nhất”.

         

          Sau đó, ông qui tụ tất cả tướng lãnh, các hiệp sĩ, những người hầu cận lại trước mặt ông và yêu cầu họ hãy quên ông là vua và là người chỉ huy của họ. Ông nói với mọi người rằng chiếc vương miện được dành cho người nào tỏ ra xứng đáng nhất trong cuộc chiến đấu.

 

          Cuộc viễn chinh đã hoàn tất cách vẻ vang, mọi người hát khúc khải hoàn trở về quê hương. Họ tụ tập chung quanh vương triều và một tướng lãnh tiến lại cầm lấy triều thiên  đội lên đầu của Philpphê và nói :”Tâu bệ hạ, bệ hạ là người xứng đáng nhất”.

 

          Chỉ có một người xứng đáng nhất được tuyên xưng tước hiệu là vua, đó là Đức Giêsu Kitô. Chỉ có mình Ngài là vua đích thực, bởi vì duy mình Ngài mới có thể mang lại sự sống cho con người, duy mình Ngài là chủ của lịch sử nhân lọai, duy mình Ngài là Đấng xứng đáng đội triều thiên vương giả. Ngài là vua duy nhất và đúng nghĩa nhất. Ngài là vua, không những vì Ngài là Đấng trao ban sự sống, mà còn vì Ngài đã thể hiện vương quyền một cách đúng nghĩa nhất.

 

IV. HÃY TIN THEO ĐỨC KITÔ VUA.

 

          1. Chấp nhận vương quền của Chúa.

 

          Hôm nay mỗi người cần tự hỏi mình có chấp nhận vương quyền của Chúa không ? Ta có để cho Chúa làm chủ tâm hồn và đời sống chưa ? Ta tuyên xưng và loan truyền vương quốc của Chúa thế nào ? Nhận Chúa là vua vũ trụ xem ra là một việc dễ dàng, còn để Chúa làm chủ tâm hồn và đời sống xem ra không phải là một việc dễ dàng.

 

          Đức Giêsu đã được Thiên Chúa Cha phong làm vua vũ trụ và dĩ nhiên cũng là vua lòng mọi người. Chúng ta chỉ có hai thủ lãnh để theo : một là Chúa Giêsu, hai là ma qủi. Chúng ta phải chọn một trong hai, hoặc là vị này hoặc là vị kia, là Chúa hay là ma qủi. Trong vấn đề này chúng ta không thể trung lập để “bắt cá hai tay”, bởi vì người ta thường nói :

 

                                      Một nhà hai chủ không hòa,

                                   Hai vua một nước, ắt là không yên.       

 

          Vậy chúng ta phải theo vị thủ lãnh nào ? Chắc chắn chúng ta chọn Đức Giêsu là vua bởi vì tất cả chúng ta  đã được chịu phép rửa tội. Qua phép Rửa tội, mỗi người chúng ta được thông phần cái chết và sự sống của Chúa Giêsu, được tham dự vào chức năng làm vua của Chúa Kitô. Đúng là : “Con vua thì lại làm vua”.

 

          3. Làm cho vương quốc Ngài phát triển.

 

          Ngày xưa, tiên tri Giêrêmia cũng nhắc đến những yêu tố làm cho vương quyền Thiên Chúa phát triển qua sự nhân nghĩa, công bình và chính trực (Gr 9,23). Ngày nay, Giáo hội cũng thúc giục chúng ta  phải làm cho vương quốc Ngài được phát triển nơi mọi người, mọi dân tộc:”Chúng con nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến”. Vì thế, trong hiến chế Lumen gentium, công đồng Vatican II dạy :

 

          “Vì thế, với ân huệ của Đấng sáng lập, và trong khi trung thành tuân giữ các giới răn bác ái, khiêm nhường và từ bỏ, Giáo hội đã lãnh nhận sứ mạng truyền giáo và thiết lập Nước Chúa Kitô và Nước Thiên Chúa trong mọi dân tộc; Giáo hội là mầm mống và khai nguyên Nước ấy trên trần gian. Đang lúc từ từ phát triển, Giáo hội vẫn khát mong Nước ấy hoàn tất  và thiết tha hy vọng, mong ước kết hợp với vua mình trong vinh quang”(L.G. đ 5).

 

          Sách Khải huyền đã ca ngợi :”Lạy Đức Kitô, Vua vũ trụ, chỉ có Ngài mới xứng đáng nhận vương quyền, vinh quang và vinh dự, vì “Ngài đã bị giết và đã lấy máu đào cứu chuộc muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ, thuộc mọi nước, mọi dân”(Kh 5,9).

 

          Giáo hội đặt lễ Chúa Kitô Vua vào cuối năm phụng vụ như một lời tuyên xưng rằng Chúa là một Vương tướng mà chúng ta hết thảy quân đội dưới bóng cờ Ngài, và Ngài hướng dẫn tất cả về cùng Chúa Cha. Ngài đã chịu đau khổ nhưng Ngài đã toàn thắng trong vinh quang.

 

          Ngày xưa, trên đầu cây thánh giá có một tấm bảng ghi :”Đây là vua dân Do thái”, khiến người ta qua lại mỉm cười khinh chê. Ngày nay cả Giáo hội tôn vinh, giữa công trường thánh Phêrô, có một cột đá khổng lồ cao 25 mét, ngày xưa ở một đền bụt thần được đưa về đây để tượng trưng cho sự toàn thắng của Chúa Cứu thế, dưới cây thánh giá có khắc ba hàng chữ bằng tiếng La tinh :

 

          CHRISTUS VINCIT: Chúa Kitô toàn thắng.

          CHRISTUS REGNAT : Chúa Kitô quản suất.

          CHRISTUS IMPERAT : Chúa Kitô thống trị.

          Đó là những lời tung hô của Giáo hội trong ngày lễ hôm nay.