Chúa Nhật XXXI thường niên - Năm C |
CON NGƯỜI ĐƯỢC ĐỔI MỚI |
Lm Giuse Đinh lập Liễm |
A. DẪN NHẬP. “Thiên Chúa yêu thương và cứu chữa mọi người”, đó là chủ đề của Lời Chúa hôm nay. Thiên Chúa yêu thương mọi loài . Lý do : nếu Chúa không yêu thương thì Ngài đã không tạo dựng, nếu Ngài ghét bỏ thì Ngài đã không bảo tồn (bài đọc 1). Câu chuyện ông Giakêu là một minh họa sống động và cụ thể cho tư tưởng trên đây. Quả thật, Thiên Chúa không thiên vị ai, không khinh bỉ ai, Ngài chỉ nhìn đến thiện chí của người ta và ban ơn cứu độ. Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca thuật lại cho chúng ta câu chuyện của ông Giakêu trở lại như thế nào. Vào thời ấy, những người thu thuế bị xếp chung với hạng người trộm cắp, giết người và đĩ điếm. Hơn nữa, vì họ làm việc cho người La mã, nên người ta cho họ là những kẻ phản bội và ruồng bỏ họ. Trái lại, Đức Giêsu lại có lối hành xử khác, Ngài kêu gọi ông, lại còn đến ăn uống và trọ trong nhà ông nữa. Việc này làm cho người Do thái rất tức giận. Ngài xử sự như thế để tỏ rõ sứ mạng của Ngài là “đến tìm và cứu chữa những gì hư mất”. Cảm động bởi lòng nhân hậu của Đức Giêsu, Giakêu đã nhận thấy những sai lầm của mình và quyết tâm sửa đổi. “Sai lầm là bản tính của con người và tha thứ là bản tính của Thiên Chúa”(A.Pope). Đối với những người tội lỗi, chúng ta hãy có thái độ khoan dung và tạo điều kiện cho họ ăn năn hối cải. Còn đối với từng người chúng ta, không ai dám nhận là mình hoàn toàn trong sạch, không bao giờ lầm lỗi. Hãy tin vào lòng nhân hậu và thương xót của Chúa, hãy tìm đến gặp Ngài và quyết chí thay đổi cuộc sống của mình để nên tốt hơn. B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA. + Bài đọc 1 : Kn 11,22-12,2. Kết luận một trình thuật về cuộc Xuất hành, câu chuyện khá độc đáo ở điểm tác giả nhấn mạnh việc Thiên Chúa nương tay đối với người Ai cập (Kn 11,15-20). Vì sao Ngài nương tay ? Bởi vì Thiên Chúa thương yêu “tất cả những gì hiện hữu”; nếu không, Ngài đã không tạo thành. Vì thế, Thiên Chúa yêu thương mọi người bất kỳ ai và mời gọi họ hoán cải. Nhìn lại lịch sử, tác giả sách Khôn ngoan khám phá được đường lối hành xử của Thiên Chúa : Ngài tỏ ra rất khoan hồng đối với những người tội lỗi. Đây là một giảng dạy ngược với cách sống khép kín của dân Do thái lưu lạc, họ không muốn tỏ cho lương dân thấy Thiên Chúa không ngừng yêu thương họ. + Bài đọc 2 : 2Tx 1,11-2,2. Các Kitô hữu ở Thessalonica hoang mang bởi những lời tiên tri, những câu chuyện và những lá thư được gán cho thánh Phaolô nói đến ngày tận thế đã gần kề. Vì thế, họ đâm ra lười biếng không muốn làm việc nữa. Để giải tỏa những lo lắng của họ, thánh Phaolô viết lá thư thứ hai này khuyên họ đừng tin vào những luận điệu mơ hồ ấy. + Bài Tin mừng : Lc 19,1-10. Câu chuyện ông Giakêu là một minh họa cụ thể những khẳng định của sách Khôn ngoan :”Chúa xót thương mọi người và tạo điều kiện cho họ ăn năn hối cải”. Giakêu là một người đứng đầu những người thu thuế, ông rất giầu. Ông muốn tìm cách để biết xem Đức Giêsu là người thế nào. Thiện chí của ông đã được đáp ứng : Đức Giêsu hứa sẽ đến nhà thăm ông. Việc này đã làm cho nhiều người khó chịu, họ xầm xì với nhau:”Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ”! Được Chúa thương vào nhà thăm, ông rất phấn khởi và tỏ ra quảng đại, ông đã tự nguyện hứa với Chúa : lấy nửa tài sản mà phân phát cho người nghèo và nếu làm hại đến ai thì xin đền gấp bốn. Đức Giêsu đã chấp nhận lòng quảng đại của ông và đã tuyên bố :”Hôm nay, nhà này được ơn cứu độ”. Lời tuyên bố này phù hợp với lời Ngài đã phán:”Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”. Nhờ Đức Kitô, ông Giakêu không những đã được giải hòa cùng Thiên Chúa mà còn được làm hòa cùng anh em đồng loại nữa. C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA. Xanh vỏ đỏ lòng. I. ĐỨC GIÊSU KÊU GỌI ÔNG GIAKÊU. Bài Tin mừng hôm nay nhằm nói lên sứ mạng của Đức Giêsu là “tìm và cứu chữa những gì đã hư mất”. Ông Giakêu đã là người được cứu chữa. Ông là thủ lãnh những người thu thuế ở Giêricô, nhờ gặp được Đức Giêsu nên đã được ơn hoán cải. Do thành tâm đi tìm biết Đức Giêsu, nên ông đã được gặp và còn được Ngài đến thăm nhà mình nữa. Trước tình thương của Đức Giêsu, ông đã tỏ ra quảng đại, chia nửa phần tài sản cho kẻ khó và đền bù gấp bốn những ai ông đã làm hại. Vì thế Đức Giêsu đã tuyện bố :”Hôm này, nhà này được ơn cứu độ”. 1. Hoàn cảnh . Giêricô có biệt danh thật thơ mộng và đẹp đẽ là “Moon city” : thành phố Nguyệt Nga, một thành phố quan trọng ở phía Bắc của Biển chết, ở cách Giêrusalem 37 km, thấp hơn mặt biển 256 mét. Giêricô là thành phố cuối cùng trong cuộc hành trình của những người hành hương lên Giêrusalem. Trên con đường dẫn vào thành phố Giêricô có hai hàng cây đổ bóng mát. Loại cây thường được trồng có tên là sycamore – cây sung. Sung là một loại cây kết hợp hình thù của cây vả và cây dâu, với những cành to lớn không cách xa khỏi mặt đất, rất dễ trèo lên, dù người thấp bé và lùn như Giakêu. “Đức Giêsu đi ngang qua thành phố ấy” để đi lên Giêrusalem và đây là giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình. Ngài lên Giêrusalem và chịu tử nạn ở đó. Trong cuộc hành trình này, tình cờ Ngài đã gặp ông Giakêu. 2. Con người ông Giakêu. Ông là người Do thái, tên Giakêu tiếng Do thái là “Zakkay” có nghĩa là “người thanh khiết – người công chính”. Phải chăng là một sự hài hước, hoặc chế diễu ? Ông không thanh khiết tí nào vì lòng ham mê tiền bạc, tham nhũng, hối lộ, và hà hiếp dân lành ? Nhưng chúng ta hãy chờ cho câu chuyện chấm dứt. Giakêu là trưởng ty thuế vụ giầu có ở Giêricô. Thu thuế là một nghề bị người Do thái khinh chê, ghét bỏ. Ngay cả những người Rôma cũng không muốn làm nghề này, nên họ mướn những người Do thái làm. Kẻ làm nghề thu thuế bị coi là người phản bội lại dân tộc, chạy theo đế quốc Rôma. Họ bóc lột tiền bạc của dân chúng càng nhiều càng tốt để chính họ có thể tránh né khỏi phải trả thuế. Giakêu, một con người bị tránh xa như dịch. Kẻ tội lỗi hoàn toàn bị hư mất. Đồ thối tha. Cấm không được giao du với con người hư hỏng ấy. Người ta nhổ xuống đất và quay mặt đi khi đi ngang qua con người ấy. Ta thử tưởng tượng điều gì có thể thúc đẩy Giakêu bất chấp sự chế diễu, đã xắn chiếc áo thụng của một ông trưởng giả Do thái và có lẽ cái áo choàng La mã để leo lên cây sung như một thằng nhóc tầm thường. Vì tính tò mò chăng ? Vì sự lôi cuốn mầu nhiệm chăng ? Vì nỗi khắc khoải mơ hồ và chán chường cuộc sống của mình chăng ? Phải nói rằng đây là cử chỉ nói lên lòng khao khát của Giakêu muốn nhìn thấy Đức Giêsu tận mắt, chứ không chỉ nghe thấy tiếng vang của Ngài đối với người bình thường. Cử chỉ này không có gì đáng nói, nhưng đối với Giakêu, một người thu thuế tội lỗi bị người ta khinh bỉ và sống cách biệt, mà lại có lòng khao khát như vậy thì quả là một người có thiện chí và lòng ngay. 3. Đức Giêsu gọi tên ông. Đứng trên cây sung, Giakêu đang trố mắt nhìn xuống Đức Giêsu, nhưng đồng thời Đức Giêsu cũng trố mắt nhìn lên Giakêu. Bốn con mắt nhìn nhau thật thắm tình. Đức Giêsu lên tiếng gọi :”Hỡi Giakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi”. Một lời kêu gọi bất ngờ đối với Giakêu vì Ngài gọi tên riêng ông, nhưng đối với Chúa thì không. Ta nhận thấy Đức Giêsu biết rõ con người của ông, chứ không phải là một cuộc gặp gỡ tình cờ, ngẫu nhiên, Chúa đã gọi đúng tên ông như đã quen biết ông từ lâu rồi. Chúa tỏ ý muốn vào nhà thăm và ở lại với ông như người bạn thân. Nghe được lời mời gọi này, Giakêu quá sung sướng nên vội vã tụt xuống. Vì quá lòng mong ước, nên Giakêu cũng có một lòng hiếu khách, một đức tính sẵn có trong dòng máu Do thái, ông đã mời Đức Giêsu vào nhà và tiếp đãi rất ân cần. Việc Đức Giêsu vào nhà ông Giakêu ăn tiệc, lại còn muốn trọ tại nhà ông mấy bữa làm cho mấy người biệt phái ưa chỉ trích rất bất mãn; vì theo quan niệm của người Do thái, việc giao thiệp với người tội lỗi đưa đến sự dơ bẩn (Lc 5,30; 7,34; 15,2). Việc lẩm bẩm chỉ trích như vậy tỏ thái độ khắt khe của con người đối với tội nhân, nhưng cử chỉ đón nhận của Đức Giêsu đối với tấm lòng ngay và thiện chí của Giakêu lại là thái độ đầy tình thương và cứu độ của Thiên Chúa đối với tội nhân. Thấy thái độ thành thực của Giakêu, Đức Giêsu đã tuyên bố :”Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Giakêu trở thành kiểu mẫu đón nhận ơn cứu độ và là cơ hội để Đức Giêsu khẳng định sứ mạng của Ngài:”Con Người đến đi tìm và cứu những gì đã hư mất”. Giakêu là con cái Abraham, nhưng đối với Giakêu, người Do thái cho là tội lỗi, không thuộc về dòng dõi Abraham nữa, thì nay nhờ ơn cứu độ lại là con cái Abraham một cách đúng nghĩa : Con cái Abraham không phải theo xác thịt nhưng là người được Thiên Chúa cứu độ. II. CON NGƯỜI ĐƯỢC ĐỔI MỚI. 1. Tiếng gọi của Thiên Chúa. Người ta nói :”Con mắt là cửa sổ của tâm hồn”. Câu nói văn hoa và thâm thúy này chắc hẳn bắt nguồn từ Lời Đức Kitô:”Đèn của thân thể là con mắt…”(Mt 6,22t; Lc 11,34t). Hiểu được ánh mắt của một người quả là không mấy dễ dàng (có chăng là ánh mắt tuổi thơ). Vì ánh mắt của một người là biểu lộ của chính tâm hồn người đó… Mà mấy ai trong chúng ta dám cho rằng mình hiểu được tâm hồn ai ? Dĩ nhiên là tùy vào cách xử sự và hành động… Như qua bài Tin mừng Chúa nhật hôm nay, trong khi những người biệt phái chỉ nhìn các người thu thuế (như Giakêu) bằng cái nhìn khinh thị kết án – Thì Đức Kitô, với cái nhìn tuyệt vời không những đã làm đổi mới cuộc đời ông và gia đình, mà còn bao điều tốt đẹp cho những người từng bị điêu đứng vì Giakêu. Cao qúi biết bao chỉ một cái nhìn… Cái nhìn của Đức Giêsu là cái nhìn chinh phục, cái nhìn của tình thương muốn cứu vớt, một cái nhìn có sức cảm hóa tâm hồn, một cái nhìn nhân từ, như không thấy tội gì trong ông. Chính cái nhìn đầu tiên chân tình và yêu thương ấy đã khiến ông nhìn lại chính mình và quyết tâm đổi mới. Thiên Chúa luôn luôn đi bước trước, con người theo sau. Người ta có thể gọi cây sung là “nơi hai ánh mắt gặp nhau”. Bề ngoài, cái nhìn đầu tiên là của Giakêu, đang cháy bỏng ước muốn xem Đức Giêsu. Nhưng sẽ không có gì xẩy ra nếu Đức Giêsu không ngước mắt nhìn lên Giakêu ở cây sung. Chúng ta tưởng rằng chúng ta tìm kiếm Chúa trong khi mà chính Ngài tìm kiếm chúng ta trước, tự muôn đời. 2. Sự đáp trả của con người. Được đón nhận lòng nhân hậu và thương xót của Đức Giêsu, Giakêu đã tỏ bầy một tâm trạng muốn hoán cải đời sống bằng cách ông muốn thực hiện ngay việc bác ái và công bằng. Ông quyết định đem nửa phần gia tài mình phân phát cho người nghèo, và nửa phần còn lại ông cũng không định giữ riêng cho ông, song ông sẽ dùng để đền bù cho tất cả những gian lận mà ông tự thú đã phạm. Trong việc đền trả này ông lại còn đi xa hơn điều luật pháp đòi hỏi. Chỉ khi nào trộm là một hành động bạo lực và dụng tâm gây tàn hại, bấy giờ mới phải đền bù gấp bốn (x. Xh 22,1). Nếu chỉ là việc trộm cắp thường và nguyên vật không thể hoàn trả, thì phải tính gấp đôi mà đền (x. Xh 22,4.7). Nếu bị can tự thú và tình nguyện hoàn trả thì chỉ phải trả theo giá nguyên vật, cộng thêm một phần năm nữa thôi (x. Lv 6,5; Ds 5,7). Giakêu nhất định làm nhiều hơn điều luật pháp đòi hỏi. Bằng hành động, ông tỏ ra đã được biến cải. Giakêu đã tỏ ra là con người quảng đại sau khi đã hoán cải. Việc bố thí cho người nghèo sinh ích lợi nhiều cho ông. Thánh Kinh đã làm chứng :”Bố thí thì cứu cho khỏi tội và khỏi chết” (Tb 4,11). Tiên tri Đaniel viết theo :”Hãy chuộc tội con bằng bố thí, và bằng sự thương yêu kẻ khó nghèo”(Dn 4,24). Nơi khác lại khen :”Của bố thí bay lên như hương thơm trước mặt Chúa”(Cv 11,4). Đức Giêsu hứa:”Hãy bố thí, rồi mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các con”(Lc 11,41). Khi ở thành Rages về, sứ thần Raphael bảo cha con ông Tobia :”Nước mắt ông chảy ra cũng như của làm phúc bố thí với những lần bỏ bữa ăn đi chôn xác kẻ chết, Ta đã thu lượm và dâng lên trước mặt Thiên Chúa… bây giờ Ta về với Đấng đã sai Ta, ông hãy tạ ơn Thiên Chúa”(Tb 12,12-13). 3. Khả năng đổi mới của con người. Sách Tam tự kinh có viết :”Nhân chi sơ tính bản thiện, tính tương cận tập tương viễn”. Bản tính của con người lúc đầu là tốt nhưng vì hoàn cảnh mà trở nên xấu. Đây là chủ trương lạc quan của Mạnh Tử. Trái lại, Mặc Tử lại chủ trương :”Nhân chi sơ tính bản ác”. Nếu bản tính con người vốn tốt mà vì hoàn cảnh mà trở nên xấu thì dễ sửa hơn, còn nếu bản tính mà xấu rồi thì sẽ sửa làm sao ? Chúng ta phải khẳng định rằng con người xấu có thể trở nên tốt được bởi vì bản tính vốn là tốt, và nếu có ơn Chúa trợ giúp nữa thì sẽ dễ dàng. Chúng ta hãy lấy trường hợp ông Giakêu ra làm điển hình. Người Do thái coi ông là một người tội lỗi, ô uế, phải tránh xa, đã xấu thì cho xấu luôn, không thương tiếc. Nhưng sau cuộc gặp gỡ Đức Giêsu, Giakêu đã nhận thấy tình yêu và lòng thương xót của Chúa đối với mình, ông nhận ra con người thật của ông : một con người xấu xa tội lỗi, đáng bị nguyền rủa. Nhưng ông thấy rằng mình có thể sửa đổi được, có thể cải tà qui chính, và ông thực sự đã hoán cải. Do đó, Đức Giêsu đã tuyên bố rằng :”Hôm nay nhà này được ơn cứu độ”. Nhìn vào cuộc đời của Giakêu lúc này chúng ta phải lấy câu tục ngữ Việt nam mà khen ông : Xanh vỏ đỏ lòng (Tục ngữ) Câu tục ngữ này có ý nói những cái bề ngòai xem ra xấu xa nhưng bên trong thì tốt. Người ta chỉ có thể thấy cái bên ngoài của một người mà không biết được lòng người ta. Người ta muốn đánh giá Giakêu thế nào cũng được, nhưng Đức Giêsu có cái nhìn thấu suốt, không nhìn cái vẻ bề ngoài của con người mà Ngài nhìn rõ cả bên trong, cho nên Đức Giêsu sẽ khen cho Giakêu một câu chắc nịch như đinh đóng cột : Xù xì da cóc trong bọc trứng tiên (câu đố). Đây là một câu đố bình dân mà người ta thường đố nhau. Vậy “xù xì da cóc trong bọc trứng tiên” là cái gì ? Chúng ta hãy giải đáp xem nó là cái gì. Nhưng cho dù nó là cái gì thì lúc nào cũng có ý nói rằng bề ngoài xem ra xấu xa nhưng bên trong thì tốt, giống như câu “Xanh vỏ đỏ lòng” vậy. Nếu chúng ta có gặp được Giakêu sau khi nhờ ơn Chúa trở lại rồi thì ông sẽ tâm sự cho chúng ta nghe. Ông cho biết nhờ ơn Chúa ông đã thực sự sửa đổi con người của mình. Đời ông không còn như xưa nữa, nay đã trở nên con người mới hoàn toàn. Có thể bề ngòai không giống nhau, nhưng thực sự bề trong đã được đổi mới hoàn toàn : Thân em như quả ấu gai, Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen. Ai ơi, nếm thử mà xem, Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi. (Ca dao)
Truyện : Harold Hughes trở lại. Harold Hughes xưa kia là Thống đốc tiểu bang Iowa, và là một nghị sĩ của Hoa kỳ. Nhưng cuộc đời của ông đã không luôn luôn thành công. Trong tập tự truyện, Hughes kể lại rằng thời trai trẻ ông đã là “một người nghiện rượu, dối trá và lừa đảo”. Vào một thời điểm trong đời ông, đã phá hủy tất cả mọi sự, và mất tất cả. Một đêm nọ ông nhảy vào bồn tắm và chuẩn bị tự tử. Ông dí khẩu súng shotgun vào bụng, rồi nhốt cái chùi giẻ vào miệng. Khi ông sắp sửa bóp cò súng, thình lình ông nhớ lại Thánh Kinh đã nói giết mạng sống mình là sai. Và ông đã cố cắt nghĩa với Chúa lý do tại sao ông lại làm điều kinh tởm này. Ông trèo ra khỏi bồn tắm, qùi xuống nền gạch lạnh lẽo, và gục đầu trên thành bồn tắm. Trong tư thế đó, ông nói chuyện với Chúa đang khi khóc nức nở. Sau đó có một điều gì đã xẩy ra mà ông chưa bao giờ cảm nghiệm thấy trong đời. Ông viết trong cuốn tự truyện như sau : “Một sự bình an ấm áp dường như bao phủ lấy tôi. Những tội lỗi của tôi dường như tan biến. Thiên Chúa cúi xuống và ôm lấy tôi. Giống như một đứa trẻ bị thất lạc trong cơn giông bão, thình lình tôi bị vấp chân ngã vào cánh tay ấm áp của Cha tôi. Đang khi quì gối trên nền nhà tắm, tôi đã hiến dâng hoàn toàn con người của tôi cho Thiên Chúa, và tôi nói với Ngài,”Bất cứ việc gì Ngài sai con làm, lạy Cha, con sẽ thực thi thánh ý Cha”. Kinh nghiệm đáng nhớ muôn đời đó đã bắt đầu một sự biến đổi hoàn toàn đối với Harold Hughes. Mười năm sau, ông được bầu làm Thống đốc tiểu bang Iowa. Bảy năm sau nữa, ông được bầu vào Thượng viện của Hoa kỳ. Sau cùng, vào năm 1975, ông rút lui khỏi hậu trường chính trị, về hưu và làm việc trọn ngày cho chương trình giúp đỡ những người cai thuốc phiện và nghiện rượu (Nguyễn văn Thái). 4. Thái độ với kẻ tội lỗi. Vấn đề chính của con người là ở chỗ chúng ta có thể thay đổi tâm hồn và học yêu thương người khác như thế nào. Phải có một tâm hồn cảm kích, mềm mại xúc động mới làm cho tâm hồn ấy mở ra và sau cùng chia sẻ sự phong phú, cảm thông. Một sự tiếp cận khắt khe làm cho tâm hồn khép kín và chai cứng. Một sự tiếp cận nhân từ, như cách Đức Giêsu thực hiện với Giakêu làm cho tâm hồn mềm mại và cởi mở không có gì có thể làm thay đổi tâm hồn bằng chính tâm hồn. Theo cách thức đó, ông Goethe đã phát biểu :”Đối xử với một người như người đang là sẽ làm cho người ấy trở nên tệ hơn, đối xử với người ấy như người ấy phải trở thành hoặc như người ấy mong ước trở thành sẽ làm cho người ấy trở nên tốt hơn, bởi vì khát vọng của chúng ta là phần chúng ta thật sự đã đóng góp”. Như vậy, gần gũi và biểu lộ tình thương với người tội lỗi là tốt nhất. Đây là thái độ Đức Giêsu thường xử sự đối với người tội lỗi, và hầu như luôn luôn có tác dụng tốt. Ngài không hề xa tránh những người thu thuế, bọn đĩ điếm, vốn bị coi là hạng người tội lỗi, như những biệt phái và luật sĩ thường làm. Kết quả của thái độ nhân từ đó là biết bao người tội lỗi trở lại con đường ngay chính, say mê nghe Ngài rao giảng Tin mừng, mà bài Tin mừng hôm nay kể ra một trường hợp điển hình. Chính vì Đức Giêsu sẵn sàng vào nhà ông Giakêu, một kẻ bị coi là tội lỗi, ăn uống và trọ lại nhà ông, mà con người ông đã hoàn toàn thay đổi. Thử tưởng tượng xem, nếu Ngài cũng đối xử với Giakêu như cách mà người Do thái thường làm là tẩy chay và xa lánh ông, thì kết quả ra sao ! Truyện : Thiền sư Sengai và đệ tử. Nhiều đệ tử đang theo học thiền định dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Một người trong bọn họ thường hay thức dậy ban đêm, vượt tường ra phố để dạo mát cho thỏa thích. Một đêm kia, Sengai đi giám thị phòng ngủ, thấy một đệ tử vắng mặt và cũng khám phá ra được chiếc ghế đẩu cao mà anh ta thường dùng để leo qua tường. Sengai dời chiếc ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó. Khi anh chàng rong chơi trở về, không biết rằng Sengai là chiếc ghế, anh ta đặt chân lên đầu thầy và nhảy xuống đất. Lúc khám phá ra việc mình đã làm, anh ta hoảng sợ, nhưng Sengai nhẹ nhàng bảo : - Sáng sớm hôm nay trời lạnh lắm. Con hãy cẩn thận kẻo bị cảm đấy. Từ đó, người đệ tử ấy không bao giờ bỏ ra ngoài ban đêm nữa. Anh chuyên tâm học tập và trở thành người đệ tử gương mẫu của thầy Sengai. 5. Công cuộc đổi mới của mỗi người. Như ở trên chúng ta đã nói : “Nhân chi sơ tính bản thiện” thì con người có hư hỏng rồi cũng có thể cải thiện được. Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta đã được trở nên tinh tuyền, đã được mặc lấy Chúa Kitô và có thể nói là trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, nhưng chúng ta phải nhớ rằng chúng ta đã được tha tội nguyên tổ nhưng không thể tránh được hậu quả của tội ấy, do đó con người chúng ta trở nên yếu đuối, dễ sa ngã phạm tội. Vì vậy, thánh Phaolô cảnh giác chúng ta :”Ai đang đứng ý tứ kẻo ngã”. “Sai phạm là bản tính của con người, còn tha thứ là bản tính của Thiên Chúa”(A. Pope). Vì thế chúng ta có thể nói : sai lỗi là chuyện bình thường, sa ngã mà không biết chỗi dậy mới là bất bình thường. Có biết bao nhiêu gương sa ngã mà đã chỗi dậy nhờ ơn Chúa. Người lành thánh mà còn sai phạm một ngày ít là 7 lần, chúng ta chưa lành thánh là bao, có sai lỗi thì cũng là chuyện bình thường, không đáng lo, cứ cậy trông vào ơn Chúa và quyết tâm hoán cải. Truyện : Leonard da Vinci vẽ hình. Danh họa Leonard de Vinci đang thực hiện tuyệt tác “Bữa Tiệc ly”. Nhưng để diễn tả một phần nào đúng chân dung của Chúa và 12 vị tông đồ, danh họa phải đi tìm những nét mặt đó nơi những người đương thời. Một hôm, họa sĩ bắt gặp trong thánh đường ở Rôma, một vị kinh sĩ trẻ tuổi có gương mặt thanh tú, trong sạch tuyệt vời hợp với chân dung thánh Gioan. Thế là ông đi theo và xin vị Kinh sĩ ngồi làm mẫu cho mình vẽ. Vị Kinh sĩ bằng lòng và họa sĩ đã vẽ được một gương mặt đẹp như Thiên thần. Vài năm sau, bức tranh “Bữa Tiệc ly” vẫn chưa hoàn thành vì không tìm ra người mẫu để vẽ chân dung độc đáo của Giuđa. Tình cờ, trên đường phố, họa sĩ gặp một người ăn mày, áo quần rách tả tơi với vẻ mặt quái đản, gian ác đến độ vừa kinh ngạc vừa mừng thầm tự chủ :”Trời ơi, người mẫu này thật lý tưởng, ta sẽ vẻ mặt gian xảo này cho thật mâu thuẫnvới vẻ mặt Thiên thần của chàng trai trước đây”. Sau khi thương lượng với giá cao, người ăn mày bằng lòng làm mẫu cho họa sĩ vẽ. Vẽ xong, họa sĩ sung sướng lấy chân dung chàng trai trẻ đặt bên chân dung người ăn mày mà ngắm nghía. Còn người hành khất giật mình chết lặng, rồi hai dòng nước mắt chảy dài trên hai gò má đen đủi và nghẹn ngào nói:”Bức chân dung người trẻ kia chính là tôi mà ông đã vẽ cách đây mấy năm. Khi đó trông tôi tốt lành, trong trắng dường nào, nhưng bây giờ tôi là một tên ăn mày, cờ bạc rượu chè say sưa”. Nói xong, anh ta bỏ đi thật tội nghiệp. Nếu chẳng may chúng ta đã để cho mình trở nên xấu như chàng ăn mày kia, chúng ta hãy bắt chước ông Giakêu tìm đến gặp gỡ Đức Giêsu. Phía Chúa Ngài luôn khẳng định là Ngài xuống thế cốt tìm kiếm và cứu kẻ tội lỗi, nên Ngài luôn luôn hiện diện mọi nơi mọi lúc, sẵn sàng theo dõi, đợi chờ con người tỏ dấu ăn năn thì Ngài sẽ hành động ngay. Nhưng nếu chỉ gặp Chúa mà thôi thì chưa đủ, cần phải có hành động cụ thể. Muốn biến cuộc gặp gỡ thành một cuộc tình gắn bó, một cuộc liên kết chặt chẽ, lâu dài thì phải thực hiện một công đoạn tiếp theo là đổi mới cuộc sống. Như Giakêu, ông ta không dừng lại ở chỗ gặp Chúa, trái lại ông ta muốn tiến xa hơn là thay đổi cuộc sống bằng cách bố thí và thực hiện đức công bằng. Cũng thế, để nhận được sự tha thứ và sự bình an của Chúa trao tặng, mỗi người chúng ta phải đổi mới ngay cuộc sống của mình bằng những cố gắng thực tế như : bỏ dần những tính hư tật xấu, cắt đứt ngay những liên hệ xấu xa, sửa lại những lầm lạc sai phạm, rồi dũng cảm thực hiện các việc đạo đức bình thường như đọc kinh, xem lễ, lần hạt và đi xưng tội, rước lễ… |