Chúa Nhật XIV thường niên  - Năm C
TỬ TẾ
SƯU TẦM

“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Chúa nhật hôm nay Giáo Hội mời gọi mọi người hãy đưa mắt nhìn đồng lúa chín vàng. Đồng lúa ấy có thể là cả thế giới. Thế giới có khoảng sáu tỉ người, mà những người tin Chúa mới chỉ hơn một tỉ. Riêng tại Á Châu, chiếm 2/3 dân số thế giới nhưng người Công giáo chỉ có không tới 3/o. Có thể là đất nước Việt Nam chúng ta gần 80 triệu người, mới có khoảng trên 10 triệu người Công giáo. Vẫn còn biết bao người chưa biết Chúa. Có thể là giáo phận, nhưng cũng có thể là khu xóm, gia đình, nơi chúng ta sinh sống, làm việc… Vậy ai là thợ gặt trong cánh đồng lúa ấy?

Trong bài Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu không chỉ sai 12 tông đồ đi rao giảng, nhưng Ngài sai tất cả 72 môn đệ. Điều này có nghĩa là việc rao giảng không phải chỉ dành riêng cho nhóm 12 là các tông đồ, nhưng cho số đông những người theo Chúa. Đối với chúng ta hôm nay, việc rao giảng Tin Mừng cũng không phải là bổn phận của một số thành phần nào trong Giáo Hội như Giám mục, linh mục hay tu sĩ, nhưng là bổn phận của những người tin theo Chúa, tức là của mọi người và mỗi người đã lãnh Bí tích Rửa tội. Như vậy, thợ gặt là tất cả chúng ta.

Thật vậy, ngay từ khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, từ khi được làm con Chúa, khi được gia nhập vào Giáo Hội, người Kitô hữu được trao cho một chiếc áo trắng đánh dấu một cuộc đời mới, đồng thời cũng được trao cho một cây nến sáng được châm lửa, được thắp sáng từ cây nến Phục sinh, tượng trưng cho Đức Kitô Phục sinh. Đức Kitô là ánh sáng. Anh sáng ấy đến thế gian để chiếu rọi bóng tối. Ai tiếp nhận ánh sáng thì cũng trở nên đèn sáng soi cho người khác. Như thế, biểu tượng trao nến sáng nói lên nhiều ý nghĩa: người lãnh Bí tích Rửa tội tiếp nhận ánh sáng trong niềm vui vì đã tìm thấy ánh sáng chân thật. Đàng khác, cũng nói lên trách nhiệm phải trở nên đèn sáng cho những người chung quanh bằng cách sống trong ánh sáng.

Như vậy, ngay từ lúc được rửa tội, ngay từ lúc tiếp nhận ánh sáng, thì người Kitô hữu cũng trở nên đèn sáng, cũng lãnh nhận sứ mạng ra đi rao giảng Tin Mừng. Nói cách khác, bản chất của người Kitô hữu là đèn sáng, là người được sai đi, sai đi thực hiện công trình của Chúa đến từng người ở mọi nơi mọi thời, không phân biệt màu da, tiếng nói, tín ngưỡng, địa vị xã hội… Và hơn nữa, ở nơi nào càng khó khăn nguy hiểm, thì người Kitô hữu càng được sai đi; ở nơi nào càng có thế lực sự dữ ngự trị, thì lệnh truyền ấy càng khẩn thiết, như Chúa đã nói: “Thầy sai anh em đi như chiên giữa bầy sói”, bởi vì “Những người mạnh khỏe không cần thầy thuốc, chỉ những ai bệnh tật mới cần”. “Ta không đến kêu gọi người công chính, nhưng kêu mời những người bất lương ăn năn trở lại”.

Tuy nhiên, công việc rao giảng không chỉ là của con người nhưng là của chính Chúa, Ngài là chủ và là người quản lý. Chính vì vậy nên khi sai các môn đệ đi rao giảng Ngài không mấy chú trọng đến phương tiện. Phương tiện mà Chúa trao cho các môn đệ là đừng mang theo túi tiền, bao bị gì cả. Phương tiện duy nhất và tiên quyết là đem lại bình an cho mọi người, là sống chia sẻ, sống trọn tình người với họ. Tóm lại là sống tử tế với mọi người. Việc sống tử tế này không chỉ đối với những người có hoàn cảnh và điều kiện tốt, nhưng là một đòi hỏi cho tất cả mọi Kitô hữu, nhất là người Kitô hữu Việt Nam chúng ta đang sống trong hoàn cảnh còn nhiều khó khăn và chưa lấy gì làm sáng sủa của đất nước. Đây cũng là điều chúng ta đặc biệt lưu ý hôm nay.

Một trong những cuốn phim gây nhiều chú ý nhất ở ngoại quốc trong thập niên 80 là phim “Truyện Tử tế” của đạo diễn Trần văn Thủy. Cuốn phim này được hãng truyền hình Pháp S.R.K mua và được trình chiếu trong chương trình có tên là “Đại Dương”. Khi một ký giả ngoại quốc hỏi: “Những người Kitô Việt Nam có thể làm gì để giúp dân tộc họ sống tử tế?”. Nhà đạo diễn đã trả lời: “Điều người ta mong đợi ở các người Kitô Việt Nam là niềm tin của họ và họ phải sống điều họ tin”.

Lời phát biểu của nhà đạo diễn trên đây đáng để chúng ta suy nghĩ. Sống trong một dân tộc còn nhiều người chưa biết Chúa. Sống trong một đất nước còn nhiều khó khăn. Sống trong một xã hội còn nhiều giả dối, gian manh, lừa đảo, tiêu cực, thì đối với người Kitô, tin và sống niềm tin của mình là phải sống, phải tin thật tử tế, tức là tin và sống tình nhân loại, sống quảng đại, tóm lại là sống tình người với nhau. Tin và sống như thế không phải chỉ là cách sống dành cho các nữ tu, các linh mục mà cũng chính là sứ mạng và ơn gọi của mỗi người Kitô chúng ta.

Có người đã nói lên một sự thật đau lòng như sau: “Chữ tử tế” bây giờ chỉ thấy ở miệng những người có tuổi hoặc những người hơi xưa. Thời bây giờ mấy ai còn thì giờ để luận bàn những chuyện xa xôi ấy”. Thật là một lời cảnh báo đáng cho chúng ta suy nghĩ. Người tử tế dường như đã trở thành loại người quí hiếm trong xã hội. Và khi lòng tử tế đã trở thành quí hiếm thì dĩ nhiên là những hành động không tử tế chút nào lại càng gia tăng với cấp số nhân. Đọc báo chí hàng ngày chúng ta thấy đầy dẫy những hành động không chút tử tế ấy.

Sống cho tử tế, sống cho ra người là điều cần thiết và quan trọng cho cá nhân cũng như xã hội. Đó là ý nghĩa của câu nói: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Tử tế thực sự không phải là có tiền hoặc muốn là có được ngay. Nó cũng phải được học hành, được dạy dỗ, được tập luyện, kế thừa và gìn giữ. Tử tế như hoa thơm, hoa đẹp, không thể thiếu được của cuộc đời.

Một người bạn của đạo diễn Trần văn Thủy, trước khi chết vì bệnh ung thư đã nói: “Tôi chả có gì phải hối tiếc vì chúng ta đã sống tử tế với nhau”. Lời phát biểu gợi cho chúng ta niềm vui ngập tràn của 72 môn đệ Chúa sau khi đã hoàn thành công tác được giao phó. Đó là niềm vui của các tông đồ chân chính, là niềm vui của những ai dám sống tử tế trong một xã hội không lấy gì làm tử tế và đó chẳng phải là niềm vui của những người Kitô chúng ta sao?

Xã hội chúng ta đang xuống cấp về mọi mặt, nhất là mặt đạo đức, đó là thực tế không thể chối cãi. Nhưng “Thà đốt lên một ngọn nến hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”. Tất cả những điều chia sẻ trên đây mong ước gợi lên cho mọi người một suy nghĩ: trước khi nghĩ đến những công việc truyền giáo to lớn rầm rộ, chúng ta cần chú ý đến những việc nhỏ bé đơn giản, đó là thắp một ngọn nến, tức là thắp một tia hy vọng cho người tuyệt vọng, mang bình an cho người đau khổ, mang tình yêu đến cho người bị bỏ rơi… chúng ta làm được những việc đó không?