Đức
Giêsu được Chúa Cha sai xuống trần gian để thực thi sứ vụ loan báo về
Nước Trời và mời gọi mọi người tin để được cứu độ. Vì thế, đây chính là
mối bận tâm hàng đầu của Ngài. Mối ưu tư đó được thể hiện rất rõ qua bài
Tin Mừng hôm nay, khi thầy trò đang đi qua cánh đồng; “tức cảnh sinh
tình”, Ngài nhìn các môn đệ và chỉ ra đồng lúa đã chín vàng rồi cất
tiếng nói: “Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin
chủ ruộng sai thợ gặt lúa về.” (Lc 10,2). Ngay sau đó, Đức Giêsu đã sai
72 môn đệ đi rao giảng Tin Mừng.
1. Sứ mạng tông đồ
Trong thời Cựu Ước, sứ mạng này thuộc về các ngôn sứ, thủ lãnh và các
vua chúa. Các ngài là những trung gian để nói lời của Thiên Chúa cho
dân; đồng thời cũng là những người chuyển cầu lên Chúa những nhu cầu của
dân…
Thật vậy, Bài đọc I hôm nay cho chúng ta thấy: Tiên tri Isaia loan báo
cho dân về một giai đoạn tự do. Dân không còn bị lệ thuộc trong thân
phận nô lệ bên Babylon nữa, bởi vì vua Ba Tư đã ký và cho phép dân
Israel hồi hương, kết thúc giai đoạn lưu đày. Tuy nhiên, lòng dân vẫn
chưa thấy bình an, nỗi lo vẫn còn đó...! Biết được sự trăn trở của họ,
Tiên tri Isaia đã trấn an họ bằng việc loan báo Chúa sẽ ban bình an và
vinh quang cho Giêrusalem. Bổn phận của họ là kiên trì và tin tưởng vào
Người. Cuối cùng là lời hứa cho những ai đặt trọn niềm cậy trông nơi
Chúa, họ sẽ được no nê, sung sướng, bình an, được vỗ về, an ủi và nâng
niu. Giống như người mẹ yêu thương con mình thế nào, Thiên Chúa cũng yêu
thương dân của Người như vậy.
Sách Bài đọc II, Thánh Phaolô nêu lên cốt lõi của niềm tin và lời rao
giảng nơi người môn đệ chính là Mầu nhiệm Thập Giá của Đức Kitô.
Nếu thành Giêrusalem trong thời Cựu Ước là niềm hy vọng, là sự bình an
của dân Israel, thì sang thời Tân Ước, chính thập giá của Đức Kitô mới
đem lại ơn cứu độ thực sự cho dân Ngài.
Thật vậy, Thánh Phaolô đã mạnh dạn tuyên bố niềm xác tín đó của mình khi
nói: “Trong khi người Dothái đòi dấu lạ, và người Hylạp tìm sự khôn
ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô đã bị đóng đinh vào
thập giá, cớ vấp phạm cho người Dothái, sự điên rồ đối với người dân
ngoại (Hylạp).” (1 Cr 1,22-23).
Không chỉ nói, mà cả cuộc đời của ngài diễn tả niềm vui vì được kết hợp
với Chúa Giêsu chịu đóng đinh: “Đối với tôi, không một vinh quang nào
khác ngoài vinh quang thập giá Đức Kitô.”
Như vậy, nội dung của lời rao giảng nơi Thánh Phaolô chính là Thập giá
Đức Kitô. Lời loan báo này đi ngược lại với lối hiểu và niềm hy vọng của
con người, cho nên khi thi hành sứ mạng ấy, người môn đệ không thể nào
tránh khỏi những cám dỗ về quyền hành, tiền bạc và danh vọng; đồng thời
những khó khăn về địa lý, về tâm thức, cũng như bị chống đối vì hiểu
lầm, bị bắt bớ và đe doạ cả đến tính mạng là điều luôn luôn xảy ra đối
với đời sống tông đồ. Người môn đệ Đức Kitô muốn thoát ra khỏi những thứ
đó để vẫn rao giảng cách trung thành và toàn diện về một Đức Kitô là
Đấng cứu độ duy nhất thì phải có một tinh thần tông đồ sâu sắc.
2. Tinh thần tông đồ
Sang
bài Tin Mừng, khi đã gợi hứng cho các môn đệ về sứ vụ loan báo Tin Mừng
qua hình ảnh cánh đồng lúa chín vàng, trước hết, Đức Giêsu bắt đầu sai
họ ra đi để thu hoạch cho Ngài. Ngài sai “cứ từng hai người” một. Khi
sai các môn đệ đi từng hai người một, Đức Giêsu muốn cho các ông hiểu
rằng: khi loan báo về Nước Trời, thì trước tiên phải có sự hiệp thông;
mặt khác, khi sai các ông đi từng cặp như vậy, Đức Giêsu trang bị cho
các ông một điểm tựa, điểm tựa ấy là sự thật, bởi vì lời chứng của hai
người là sự thật.
Khi đồng tâm nhất trí với nhau trong cùng một lời nói, cùng chia sẻ với
nhau trong cùng một nội dung của lời giảng, người môn đệ đem lại cho con
người niềm hy vọng. Niềm hy vọng này bắt nguồn từ truyền thống của dân
Israel thời Cựu Ước.
Thứ đến, Đức Giêsu tiên báo cho các môn đệ thấy trước những khó khăn thử
thách, những rào cản trên cuộc hành trình ấy: “Thầy sai các con đi như
chiên con đi giữa bầy sói.” (Lc 10,3). Ngài nói trước những khó khăn như
vậy để cho các ông thấy rằng, trong khi loan báo về Nước Trời, không
thiếu những kẻ không muốn vào mà lại còn tìm cách ngăn cản không cho
những người khác được vào và khi ấy họ sẽ tìm cách triệt hạ những người
được mời gọi. Chiên thì hiền lành mà sói thì hung dữ. Cuộc sống và hành
trình này không phải lúc nào cũng xuôi trèo mát mái, mà luôn gặp phải
những bão táp cuồng phong. Khi đưa ra hình ảnh của “chiên” và “sói”, Đức
Giêsu muốn dạy cho người môn đệ bài học về sự kiên trì, chịu đựng, và
trong mọi hoàn cảnh họ phải sống đúng bản chất của mình là “chiên” chứ
không phải là “sói”, để yêu thương ngay cả kẻ thù của mình nữa.
Tiếp theo, tinh thần siêu thoát nhẹ nhàng là hành trang của người môn
đệ. Trên hành trình ấy, Đức Giêsu không chấp nhận người môn đệ mang
những thứ cồng kềnh. Bởi vì những thứ đó sẽ làm cho người môn đệ sinh ra
nặng nề và đôi khi bỏ cuộc chỉ vì những chuyện phụ thuộc như “củ hành củ
tỏi”. Vì thế, Ngài nói:“Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép...”.
Các môn đệ phải sống nghèo thực sự. Có sống nghèo, các ngài mới có sự
cảm thông, liên đới, mới dám chấp nhận tất cả vì sứ mạng.
Hơn nữa, loan báo về Nước Trời phải là một sự cần kíp, cấp bách đến độ
phải ưu tiên hàng đầu. Vì thế, Đức Giêsu căn dặn các ông rằng “đừng chào
hỏi ai dọc đường”. Ngài sai các ông lên đường với một mệnh lệnh khẩn
trương, đòi hỏi người môn đệ phải nhanh nhẹn. Khi truyền cho các ông như
thế, Đức Giêsu muốn dạy các ông rằng: khi loan báo Tin Mừng, không được
quan tâm đến những chuyện bên lề quá nhiều để rồi quên đi việc chính
yếu.
Cuối cùng, là tinh thần kiên nhẫn. Phải chăng chính Đức Giêsu đã cảm
nghiệm sâu sắc khi người dân quê của Ngài nói: ông ấy chẳng phải là con
bà Maria hay sao, cha ông ta lại không phải là bác thợ mộc…? Rồi biết
bao những chống đối, ngờ vực, không tin, bị bắt bớ, đánh đòn nữa… Vì
vậy, Ngài nói: “Vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón…”. Chúa
muốn dạy cho các ông phải có tinh thần kiên trì, chịu đựng, không được
nóng vội.
Như vậy, Đức Giêsu căn dặn, cảnh báo cho các ông tất cả những đức tính
cần phải có nơi người môn đệ, đồng thời những khó khăn các ông sẽ gặp
trên hành trình loan báo ấy, rồi đến lượt chúng ta, chúng ta loan báo
bằng cách nào?
3. Sứ mạng tông đồ của mỗi chúng ta
Khi sai 72 môn đệ đi loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu muốn cho mỗi người
chúng ta được tham dự vào sứ mạng ngôn sứ phổ quát của Ngài. Sứ mạng ấy
được khởi đi từ lệnh truyền của Đức Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương
thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16,15). Từ đó,
chúng ta xác định căn tính truyền giáo thuộc về chúng ta. Bao lâu chúng
ta không truyền giáo, thì bấy lâu ta đánh mất bản chất của mình. Nói như
Thánh Phaolô: “Khốn thân tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng.” (1 Cr
9,16). Nỗi lòng thao thức của Đức Giêsu - “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt
thì ít…” - phải là lời chất vấn lương tâm mỗi chúng ta. Là Kitô hữu,
chúng ta cùng đồng lòng và cảm nghiệm với Đức Giêsu trước những cánh
đồng bao la đang độ chín vàng… Tham gia vào sứ mạng truyền giáo là chúng
ta đang đóng góp cho Giáo Hội những viên gạch, hạt cát để xây nên tòa
nhà Giáo Hội, nơi đó là niềm vui, hạnh phúc và bình an.
4. Cách thức loan báo Tin Mừng
Thiết nghĩ, trong cuộc sống của con người thời nay, niềm tin của họ đang
bị đánh cắp hay bị đặt sai chỗ bởi những chủ thuyết tương đối, dẫn đến
tình trạng bình thường hoá mọi mặt, kể cả những giá trị đạo đức, những
chân lý đức tin. Đứng trước thực trạng trên, chúng ta có bổn phận phải
trở nên ánh sáng cho trần gian và muối ướp cho đời.
Nếu muối có tác dụng làm tăng vị cho thức ăn, ướp cho khỏi hư thối, thì
người Kitô hữu cũng phải có bổn phận trở nên chứng nhân của sự thật, một
sự thật sẵn sàng sống chết để bảo vệ cho chân lý.
Nếu ánh sáng để soi sáng cho người ta đi đường và giúp tìm ra những thứ
ở trong bóng tối thế nào, thì người Kitô hữu truyền giáo cũng phải trở
nên ánh sáng, gương mẫu cho mọi người như vậy.
Sứ mạng truyền giáo ấy khởi đi từ trong gia đình: chồng làm chứng cho
vợ, vợ làm chứng cho chồng. Cha mẹ nêu gương sáng cho con cái. Bạn bè
sống tốt với nhau trong môi trường, công ty xí nghiệp. Hàng xóm láng
giềng ăn ở hài hoà, sẵn sàng giúp đỡ nhau những lúc cần kíp…
Khi sống đời chứng tá bằng những giá trị Tin Mừng như thế, chúng ta sẽ
gặp không ít những khó khăn, thử thách trong đời sống. Không thiếu gì
những cám dỗ làm cho muối ra nhạt, ánh sáng bị lu mờ. Nhưng dù trong
hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn luôn nhớ mình thuộc về Đức Kitô, có tránh
nhiệm mang Ánh Sáng ấy soi sáng thiên hạ.
Có thế, chúng ta mới được coi là xứng đáng đón nhận phần thưởng của Chúa
trao ban cho những ai đã cùng Ngài để quy tụ muôn dân về một mối là Nước
Trời: “Hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi Trên Trời.”
Lạy Chúa, còn biết bao nhiêu người chưa nhận biết Chúa, biết bao nhiêu
con chiên lạc chưa được đưa về ràn. Xin Chúa ban cho những người con của
Chúa luôn sẵn sàng, hăng say loan báo Tin Mừng cho những người chưa nhận
biết Chúa. Ước gì mọi người con của Chúa trên trần gian này đều được quy
tu thành một ràn chiên duy nhất, dưới sự lãnh đạo của Vị Mục Tử Tối Cao
là chính Chúa. Amen. |