Chúa Nhật XXIII - Thường Niên - Năm B |
PHÉP LẠ |
SƯU TẦM |
Các tác giả sách Tin Mừng đã ghi lại cho chúng ta những phép lạ của Chúa Giêsu. Nói đến các phép lạ tức là nói đến những điều lạ lùng, khác thường mà Thiên Chúa đã làm để bày tỏ hay minh chứng một điều gì. Thực vậy, mỗi phép lạ đều bày tỏ cho thấy quyền năng của Thiên Chúa. Ngài là chủ tể vạn vật trời đất, Ngài quyền phép vô cùng. Ngài có thể làm được mọi sự. Ngài là chủ tể của sự sống, Ngài là Đấng ban sự sống, Ngài mạnh hơn sự chết và tất cả những gì loan báo sự chết. Đàng khác, mỗi phép lạ còn cho thấy Thiên Chúa là Đấng thiện hảo, Ngài yêu thương con người và muốn cứu giúp con người. Các phép lạ Chúa Giêsu làm cũng trong ý hướng đó, Ngài làm những phép lạ thường là vì lòng thương, như thương người bệnh tật, thương người đói khát, thương người đau khổ, thương gia đình có người chết… Do đó, chúng ta có thể nói: Chúa Giêsu đã đến cho người ta thấy tình thương Thiên Chúa yêu thương loài người, và Ngài chứng tỏ tình thương ấy bằng cách giúp đỡ loài người. Nhưng tình thương của Thiên Chúa không phải chỉ giúp đỡ đời sống thể xác của con người mà còn muốn cứu giúp cả con người toàn diện. Vì thế, những phép lạ của Chúa Giêsu còn có ý nghĩa sâu xa hơn, đó là những dấu chỉ của ơn cứu độ mà Ngài đem đến cho nhân loại, Chẳng hạn, khi chữa cho những người bại liệt, Ngài cho thấy Ngài có quyền tháo gỡ con người khỏi những ràng buộc của tội lỗi. Khi làm cho người mù sáng mắt, Ngài cho thấy Ngài là ánh sáng thật cho người ta nhìn ra “Đấng cứu độ”. Khi hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn ngươi ăn no. Ngài cho thấy Ngài là bánh hằng sống đem lại sự sống muôn đời cho con người… Còn phép lạ chữa người câm điếc kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn cho mọi người thấy và biết điều gì? Trước hết, chúng ta thấy cách hành động của Chúa Giêsu trong trường hợp này hơi khác thường, kỳ lạ: Chúa đưa người ấy ra xa đám đông, đặt ngón tay vào tai người ấy, lấy nước bọt thoa vào lưỡi người ấy, rồi Chúa ngước mắt lên trời, thở dài và bảo người ấy: “Epphata” nghĩa là “Hãy mở ra”, kết quả: tai người ấy mở ra, nút buộc lưỡi người ấy được cởi ra, và người ấy nói được rõ ràng. Trong Tin Mừng chúng ta rất ít khi gặp trường hợp Chúa chữa bệnh một cách “vất vả” và khác thường như vậy. Những cử chỉ bên ngoài Chúa làm ở đây chỉ là để thúc đẩy lòng tin bên trong nơi người câm điếc mà thôi. Bởi vì đối với người câm điếc, không nghe được, không nói được, nên không còn cách nào khác hơn là chạm vào tai vào lưỡi người ấy. Theo quan niệm thời đó, người ta gán nguyên nhân bệnh tật cho ma quỷ: người câm là người bị quỷ câm cột lưỡi lại, Chúa thoa nước bọt vào lưỡi rồi phán một lời, tức thì nút cột lưỡi được tháo ra, cho thấy Ngài thắng được quyền lực của Sa tan để giải phóng con người. Một điều đặc biệt nữa: Chúa Giêsu đã đưa người bệnh ra xa đám đông để chữa, bây giờ Ngài lại truyền cho người ta (người câm điếc và cả những người đã đưa người câm điếc tới) không được nói ra với ai. Chúng ta thấy chỉ thị này có vẻ kỳ cục, vì Ngài đã chữa cho người câm điếc này nói và nghe được, rồi lại cấm không được nói ra với ai thì làm sao cấm được? Làm sao nén được niềm vui của người đã được ơn lạ? Và làm sao nén được niềm vui của đám đông đã chứng kiến chuyện lạ? Bằng chứng là Ngài bảo người ta đừng nói thì người ta lại càng rao truyền mạnh hơn. Đây là vấn đề về “bí mật Đấng Thiên Sai”. Tin Mừng nhiều lần kể lại lời căn dặn giữ kín này sau các phép lạ chứ không phải chỉ có phép lạ hôm nay mà thôi, chẳng hạn Chúa cấm ma quỷ không được nói ra Ngài là ai, cấm những người đã được hưởng phép lạ hoặc chứng kiến không được nói ra, cấm các môn đệ không được nói ra Ngài là ai… Chúng ta có thể trả lời như sau: trong khung cảnh tâm lý của dân Do Thái lúc ấy, lòng háo hức mong chờ một Đấng Thiên Sai giải phóng họ khỏi đế quốc Rôma rất mãnh liệt, nên thấy Chúa Giêsu có uy quyền như thế, họ rất dễ ngộ nhận. Bởi vậy, Chúa căn dặn không được nói ra, vì chưa đến lúc có thể nói thẳng ra được, phải chờ cho đến lúc Ngài chết trên thập giá rồi mới có thể rao giảng, công bố cho mọi người biết Ngài là Đấng Thiên Sai mà không còn ngộ nhận nữa. Nói ngắn gọn: Chúa yêu cầu người câm điếc và những người chứng kiến không được nói ra cho ai biết để người ta khỏi hiểu lầm ý nghĩa của những phép lạ, cho rằng Ngài đến để cứu vớt người ta về mặt chính trị hoặc kinh tế, trong khi sứ mạng của Ngài không phải ở những khía cạnh đó. Phép lạ là những sự lạ lùng để minh chứng quyền năng và tình thương của Thiên Chúa, đồng thời khơi dậy niềm tin hoặc củng cố niềm tin cho con người. Nhưng chúng ta hãy nhớ: một lòng tin chỉ dựa vào phép lạ là một lòng tin còn non nớt, yếu đuối và bồng bột, dễ thay đổi. Một lòng tin vững chắc không lệ thuộc vào những gì tai nghe mắt thấy, nhưng chỉ dựa vào lời Chúa, như Chúa Giêsu đã nói với tông đồ Tôma: “Hỡi Tôma. Anh thấy Thầy nên anh tin, nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin”. Ngày xưa cũng như ngày nay, phép lạ không phải là cách thế thường xuyên và rõ ràng nhất để làm chứng về Chúa Kitô và về đạo của Ngài. Có những cách chắc chắn hơn để làm chứng, đó là niềm tin chân thành, can đảm và vui tươi của người Kitô, là đời sống bác ái và lòng yêu thương của người Kitô, là sự quên mình xả thân vì người khác theo gương Chúa Kitô. Xin Chúa cho chúng ta luôn tin tưởng và sống được như thế để làm chứng cho Chúa. |
|