Chúa Nhật III Mùa Vọng - Năm B
ÂM VANG CỦA NGÔI LỜI
Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Người Do thái": Nơi Gioan, hạn từ này đôi khi ám chỉ các thành phần của dân Israel (3,25; 4,9.22); nhưng trong hầu hết mọi trường hợp nó nhắm đến họ như những người đại diện cho một thế giới đang đi dần đến chỗ ngộ nhận rồi đối nghịch với Đấng Thiên Chúa sai đến, nghĩa là nó đặc biệt ám chỉ các quyền bính hiện hữu (2,18; 5,10-18; 7,1.13; 9,22 v.v.)

"Họ đã được biệt phái sai đến": Người ta không biết phải dịch câu 24 này sao cho đúng. Có thể hiểu rằng phái đoàn gồm có cả Biệt phái, hay chỉ gồm Biệt phái, hoặc do Biệt phái sai đi (như cách dịch của BJ và Nguyễn thế Thuấn ở đây muốn hiểu). Nhưng cách dịch sau cùng này, nếu đúng, lại khác nữa nghi ngờ sự hiểu biết mà tác giả Tin Mừng thứ 4 có thể có về Do thái giáo trước năm 70. Các biệt phái bấy giờ thù nghịch với các tư tế và Lêvi (l,19) những người mà họ không có quyền sai phái được. Thành thử câu này là một trong các lý chứng để gán Tin Mừng Thứ Tư không phải cho Gioan sứ đồ, con của Dêbêđê, nhưng cho một Gioan khác (“Gioan Trưởng lão", mà papias đã nói đến?) môn đồ của vị sứ đồ.

"Vậy tại sao ông dám thanh tẩy?": Cái làm bận tâm quyền bính tôn giáo hơn cả chính là phép rửa giao ban. Vì đây không phải là các nghi thức thanh tẩy thường thấy giữa người Do thái mà trong đó mỗi người tự rửa cho mình, sông là một phép rửa được ban với uy quyền do một người vốn là thừa tác viên độc hữu. Đàng khác, đây chẳng phải là Gioan làm phép rửa cho lương dân, để họ gia nhập Do thái giáo, nhưng là cho những người Do thái tinh ròng. Sau cùng, ông đặt phép rửa này tương quan với Nước Thiên Chúa mà ông loan báo là gần đến; khiến cho người ta phải nghĩ rằng ông có những tư tưởng, hoài bão thiên sai. Tất cả những điều đó phải được làm sáng tỏ kỹ lưỡng.

"Bêthania, bên kia sông Giođanô": Khó xác định địa danh này. Thực vậy, một vài thủ bản sao ghi một tên rất là bác học: Bethabara, địa danh Hy Bá có nghĩa "chỗ lội qua được". Cách viết này không hẳn là không nguyên thủy, nhưng có thể ngày xưa, ngoài ngôi làng của Mátta và Maria, có một nơi gọi là Bêtania mà nay bị lãng quên. Nếu nhân cách đọc Bethabara, “chỗ lội qua được", thì đấy là một khúc cạn của sông Giođanô nằm phía bắc Biển Chết. Như thế, Tin Mừng được mặc khải tại chính địa điểm mà ngày xưa tuyển dân đã vượt qua sông Giođanô để đi vào Đất Hứa. Một lối điển hình luận nhưng chẳng phải xa lạ với thánh Gioan. Thành thử không cấm ta đề cập đến nó, mặc dầu hình như đây là tư tưởng của Origène hơn là của thánh sử.

KẾT LUẬN

Như vậy bản tổng kết của ngày thứ nhất này còn khá tiêu cực lời nói của vị Tẩy Giả như tạo nên một khoảng trống cần được lấp đầy. Gioan Tẩy giả không phải là Đức Messia. Cũng chẳng phải là Elia hay Đấng Ngôn sứ. Dĩ nhiên ông làm phép rửa, nhưng chỉ trong nước mà thôi. Ông tự nhận là không đáng cởi dây giầy cho Đấng đếùn sau mình. Như mọi người Do Thái tới chất vấn, ông cũng chờ đợi Đức Messia. Ông không biết gì về Người hơn họ. Ông chỉ hay một điều là ông xuất hiện trước Người. Để Chiên Thiên Chúa, tuyển nhân của Thiên Chúa được mặc khải, cần phải đợi "ngày” thứ hai.

Đem ra khỏi văn mạch chung, bản văn của chúng ta còn nhấn mạnh nhiều đến tính cách tương đối, tính cách phụ tùy hoàn toàn của công việc vị Tẩy giả. Nét này - nếu đem so sánh với Tin mừng Nhất Lãm - đúng là nét căn bản trong hình ảnh mà Tin mừng Thứ Tư phác họa ra cho ta về vị Tiền Hô. Theo Tin Mừng Thứ Tư, Gioan Tẩy Giả chỉ là nhân vật trong đó tập trung niềm chờ mong của cả Cưụ ước.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG.

1. Cuộc xuất hành thứ nhất là cuộc xuất hành từ chốn nô lệ Ai cập về miền Đất Hứa dưới sự hướng dẫn của Môisen, ngang qua Biển đỏ và sa mạc, với manna làm của ăn và mạch suối hốc đá làm thứ giải khát. Cuộc xuất hành mới là cuộc xuất hành đưa người Do thái từ cảnh lưu đày Babylon về lại Thánh địa, dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa, Mục tử của dân, ngang qua sa mạc Syria đầy chướng ngại đối với những kẻ thoát chỉnh lưu đày. Đó là cuộc phục hưng Israel để đợi chờ Đấng Messia đến. Vào thời của Đấng Messia, ta thấy cuộc xuất hành được làm lại. Gioan Tẩy giả, đứng ở sa mạc, bên bờ sông Giođanô, đưa đám người thống hối qua con sông thánh để tiến về Chúa Kitô (Mt 3, 1-11). Chúa Giêsu khai mạc cuộc đời công khai trong sa mạc của cám dỗ và của đói khát (Mt 4,1-11). Việc người đi trên nước (Ga 6, 16-21) mở đầu cho lời hứa ban manna đích thực (Ga 6,31-34) là Mình Người, bánh sự sống chân thật (Ga 6,35), của ăn nuôi hồn (Ga 6,51-58). Việc Người bị giương cao trên Thập giá thể hiện hình ảnh biểu tượng con rắn đồng thời Xuất hành (Ga 3,4). Rồi Chúa Giêsu bàn về cuộc xuất hành của cái chết Người với Môisen và Elia trong cuộc biến hình trên núi (Lc 9,31). Vào ngày Thăng Thiên, Người hoàn tất cuộc xuất hành về với Cha (Cv 1,9). Đến lượt chúng ta, trong Giáo Hội của Chúa Kitô, chúng ta đi qua nước rửa tội và, nhờ được Thánh Thể nuôi dưỡng, chúng ta trở nên đủ sức thắng vượt các cơn cám dỗ vốn làm cho ta xa Chúa (lCr 10). Việc biến cải tâm hồn và lòng thống hối làm nên cuộc xuất hành của tội nhân, là kẻ chạy trốn ách thống trị của tội ác và tìm lại được, nhờ ơn tha thứ, sự bình an của tâm hồn (Mt 3,1-3.). Cái chết là cuộc Xuất hành đưa linh hồn nào đã dựa vào Chúa, tìm gặp Chúa Kitô và Thiên Chúa trong hạnh phúc vĩnh cửu (2Cr 5,6 -10).

2. Sau bài tựa là phần nhập đề tổng quát và là tóm lược của cuốn sách, Gioan đặt ngay đầu Tin Mừng của ông khuôn mặt vị Tẩy Giả. Đối với thánh sử, ông này rõ ràng là khuôn mặt của mùa Vọng, là điển hình của con người đứng giữa quá khứ và thời Chúa giáng lâm. Thành thử chúng ta lạ gì khi, suốt mùa Vọng, Giáo Hội nhắc đến khuôn mặt của Gioan trong nhiều bài Tin Mừng Chúa Nhật, để nói cho chúng ta biết rằng mùa Vọng của chúng ta là gì: vì nếu Chúa đã đến, Người cũng còn phải đến thực sự. Người đã có đấy, nhưng vẫn còn là vị Thiên Chúa mai ẩn giữa chúng ta, và vì thế chúng ta vẫn luôn luôn là những kẻ không có nơi cư ngụ vững chắc đời này, vẫn còn là lữ khách xuất hành đứng giữa thời gian và vĩnh cửu, còn là những kẻ phải chờ đợi Chúa đến, những kẻ vẫn cử hành Mùa Vọng ngay cả trong mùa Giáng sinh, những kẻ phải hiểu rằng đây luôn là khởi điểm và thời gian của cuộc hành hương, đây luôn là cuộc hành trình đi qua thời gian trong nguy nan gian khổ, cuộc hành trình vững tâm đi đích ánh sáng vĩnh cửu mà chúng ta còn chờ đợi. Đối với chúng ta, điều đó có nghĩa là vĩnh cửu chưa có đấy, nhưng không có nghĩa là chúng ta được phép bất quan tâm đến ánh sáng đã thắp lên, bất lưu ý tới trần gian này. Chúng ta phải lấy vị Tiền hô làm kiểu mẫu.

3. Kinh Thánh nói Gioan Tẩy giả đã bị các sứ giả của người biệt phái chất vấn về lai lịch, trong thâm ý xin ông làm một cử chỉ, nói lên một lời để hợp pháp hóa cuộc sống, công việc của ông. Và ông đáp lại: ''Tôi không phải là Chúa Kitô". Đời chúng ta há chẳng có chuyện tương tự, một kinh nghiệm tương tự, khi chúng ta phải kiên quyết mà bảo: ‘Không! Tôi không phải thế. Tôi đâu có phải là một người mạnh, một kẻ chẳng cần Thiên Chúa và chẳng cần tìm hạnh phúc nơi Ngài’. Vấn đề luôn luôn là xem con người tôi có bám chặt vào kinh nghiệm ấy chăng, có nói tiếng không chăng, vì ý nghĩa đích thực của đời tôi hệ tại chỗ thừa nhận ra sự yếu đuối của mình, tội trạng của mình và nhường chỗ cho cái duy nhất có thể đi vào đời tôi và ban cho nó ý nghĩa. Khắp nơi và luôn mãi, chúng ta phải từ bỏ sự tự tôn lẫn thói kiêu ngạo bằng cách bảo: "Tôi không phải thế. Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, theo kiểu nói của vị Tiền Hô".

4. Ngày nay có nhiều kẻ đang bao quanh ta mà chất vấn: "Kitô hữu, bạn là ai?". Họ là người ngoài Kitô giáo, người quan sát vô tư hay người lưu ý đến lối sống của ta, cũng hỏi ta như thể lương tâm ta: "Mày nói sao về chính mày" hay những kẻ trong Hội thánh, đang coi sóc linh hồn ta và phải trả lẽ về ta trước mặt Chúa như: hàng giáo phẩm, cha giải tội, cha linh hướng.

5. Nếu thành tâm, ta sẽ không chấp nhận bị tưởng lầm, tưởng lầm là Chúa Kitô (như thể ta đại diện Người hoàn toàn, hay thử coi mình ngang hàng với Người), tưởng lầm là các ngôn sứ có trách nhiệm về vận mạng của kẻ đồng đạo) và đòi bất khả ngộ, tưởng lầm như là bậc thánh vì chúng ta là những tội nhân (1Ga 1,8).

6. Với lòng khiêm tốn của vị Tẩy giả, hãy chấp nhận trở thành một tiếng nói, một âm vang của Ngôi Lời, Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa (Ga1,1-2). Dù chúng ta là phản ảnh của vinh quang Chúa Kitô (2Cr 4,6), là hình ảnh sống động của Con Thiên Chúa (Rm 8,29), đấy vẫn là một ân huệ nhưng không của Ngài (Ep 2,8). Dù có thể làm gì cho Ngài, chúng ta bao giờ cũng chỉ là những tôi tớ (Lc 16,16).