Chúa nhật IV thường niên - Năm B
HÃY TRỞ THÀNH VỊ NGÔN SỰ CHÍNH DANH
Fr. Jude Siciliano, OP

Thưa quí vị, Chủ đề tuần này về các ngôn sứ được thánh hiến để phục vụ Thiên Chúa và cộng đoàn. Ông Môsê, Chúa Giêsu và các ngôn sứ chân thực khác trong Cựu ước đã chu toàn nhiệm vụ đó một cách anh hùng. Tuy nhiên cũng không hiếm các ngôn sứ giả, dụ dỗ cộng đoàn đi theo con đường sa đoạ. Xin suy nghĩ cặn kẻ đề tài này, ngõ hầu tự xét mình cho nghiêm chỉnh, chúng ta thuộc thành phần ngốn sứ thật hay giả hiệu?

Chắc hẳn quí vị còn nhớ câu hỏi của những kẻ được sai đến với ông Gio-an tẩy giả: “Ông có phải là một ngôn sứ không?” (Ga 1, 21). Suy nghĩ kỹ chúng ta thấy rằng sâu trong tâm khảm dân Israel, nhất là những người có học thức như tư tế, thượng tế, ký lục, kinh sư vẫn mong đợi vị ngôn sứ mà ông Môsê đã hứa: “Khi ấy ông Môsê nói với dân Israel rằng: từ giữa anh em, trong số các anh em, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ cho xuất hiện một vị ngôn sứ như tôi để giúp anh em. Anh em hãy nghe vị ấy” ( Đnl 18, 15).

Trong bữa tiệc trên núi Chúa Giêsu nuôi 5 ngàn người đàn ông bằng 5 chiếc bánh và hai con cá. Câu hỏi lại được nêu lên: “Chắc chắn ông này là một ngôn sứ phải đến trong thế gian.” Như vậy não trạng dân Do thái là não trạng chờ đợi, nhất là trong những hoàn cảnh tối tăm như thời đại Chúa Giêsu. Điều đáng lưu ý họ chờ đợi không phải bất cứ vị ngôn sứ nào, mà là vị ngôn sứ đã được xác định rõ ràng trong lời hứa của Môsê. Hồi ấy người ta đã đặt tên cho ông là Messiah (Đấng Thiên sai). Dĩ nhiên bây giờ nhìn lại chúng ta thấy Chúa Giêsu còn hơn một ngôn sứ, việc mong chờ của Israel thật hữu lý. Chúng ta nên noi gương trong đời sống thiêng liêng của mình.

Ông Môsê đã gieo niềm mong đợi trong xã hội Do thái. Chúa Giêsu còn hứa nhiều hơn nữa cho hội thánh. Tại sao chúng ta thờ ơ? Xin suy nghĩ lại kẻo thua xa dân tộc Do thái! Nhất là quý vị giảng thuyết phải luôn thắp sáng ngọn đèn hy vọng chứ đừng phí phạm thời giờ nói hưu nói vượn. Chẳng nhà giảng thuyết nào tài giỏi đến độ không cần học hành và suy gẫm. Nhưng chúng ta ngày nay lại sao lãng công việc này quá, thì làm thế nào có đựơc bài giảng chất lượng ?

Ông Môsê là ngôn sứ của Thiên Chúa. Ông được Thiên Chúa trực tiếp dạy dỗ trên núi Sinai. Ông can đảm đứng lên giải phóng dân tộc mình và dẫn dắt họ qua sa mạc bốn mươi năm trở về đất hứa. Qua lời nói và hành động của ông, Thiên Chúa đã dẫn dắt, kiện cường và khích lệ tuyển dân vượt muôn vàn khó khăn để sống còn, kể cả thể lý và tinh thần trong sa mạc khô cằn. Không có Môsê thì làm sao dân Israel còn sống mà về đất hứa ? Không có Chúa Giêsu làm sao Hội thánh đạt đến mục tiêu ? Cho nên Môsê đã cam đoan với dân chúng về ngôn sứ mới “như tôi”để dẫn dắt dân. Thiên Chúa đã không bỏ rơi tuyển dân ? Thử hỏi Ngài từ bỏ chúng ta ngày nay làm sao được? Chúa Giêsu là người ứng nghiệm của lời hứa đó. Chúng ta có bổn phận rao giảng và làm chứng cho vị ngôn sứ vĩ đại này. Do đó, chúng ta phải vâng lời Môsê: “Anh em hãy nghe vị ấy”. Nếu không, thì là tín hữu giả hiệu, tông đồ cho “cha kẻ nói dối”.

Môsê đã gieo trồng trong dân Israel hy vọng hằng nhiều trăm năm trước Thiên Chúa sẽ ban cho họ một Đấng giải phóng giống như ông. Đấng ấy sẽ cứu gỡ họ khỏi tay quân thù bề ngoài cũng như tâm linh. Điều trớ trêu hôm nay là Marcô đặt lời công bố đó vào miệng một người bị thần ô uế ám: “Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng thánh của Thiên Chúa”. Lúc sau khi chúa Giêsu đuổi thần ô uế ra khỏi người đàn ông, thì dân chúng đã bày tỏ niềm hy vọng vào một vị ngôn sứ của tuyển dân: “Điều chi vậy ? Lời giảng có uy quyền !” Các thầy dạy trong dân chúng không được như vậy, vì họ nói như con vẹt từ sách thánh, không có tác dụng nào. Còn Chúa Giêsu với thẩm quyền riêng của mình. Ngài đưa ra những chân lý, những lý lẽ làm cac thính giả phải “ngạc nhiên”.

Xin nhớ chúng ta đang khởi sự đọc Phúc âm theo thánh Marcô cho năm phụng vụ B. Chúa Giêsu vào các hội đường Do thái để giảng dạy. Các phép lạ chỉ kèm theo lời giảng dạy, minh chứng cho lời giảng dạy, chứ không phải là điểm chính yếu. Nói cách khác củng cố, nhấn mạnh cho nội dung giảng dạy của Ngài và đã làm cho các thính giả sửng sốt. Chắc chắn lời rao giảng của Chúa không phải ru ngủ mà làm tỉnh thức về bổn phận tôn giáo. Điều mà thiên hạ chẳng muốn nghe nhưng vẫn thích nghe.

Trong lịch sử Israel có rất nhiều ngôn sứ “ghê gớm”. Ông Môsê chỉ là một trường hợp Thiên Chúa với tới dân Ngài. Nhưng dân Do thái cũng nổi tiếng giết các ngôn sứ. Giống như ngày nay chúng ta giết hại các kẻ can đảm nói lên sự thật và lẽ phải. Xin đừng quá kiêu ngạo mà chối bỏ tình hình. Chúng ta ưa thích giết hại các ngôn sứ chân thật để lắng nghe ngôn sứ giả hiệu, tương tự như dân Do thái thuở xưa. Lịch sử Cựu ước đầy dẫy những trường hợp như vậy. Chúa Giêsu cũng nhắc đến khi vào thành thánh: “Giêrusalem ! Giêrusalem ! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi.” (Mt 23,37).

Nhưng điều nâng đỡ niềm tin của người Do thái là hy vọng vào lời hứa của Thiên Chúa qua Môsê, ban cho dân tộc một ngôn sứ giống như tôi. “Ngôn sứ nẩy sinh từ giữa anh em, để giúp đỡ anh em. Anh em sẽ nghe vị ấy.” Chính xác Phúc âm hôm nay bắt đầu như thế đấy, tại Caphanaum nơi Đức Giêsu sinh sống và giảng dạy. Ngài là người Do thái, do cha mẹ Do thái sinh ra đúng như Môsê tiên báo. Đồng chủng tộc với người Do thái. Thần ô uế trong người đàn ông đã xưng tụng: “Ông Giêsu, người Na-za-reth, chuyện chúng tôi có can dự gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi.” Theo thói tục phụng vụ Do thái, ở Hội đường, một thành viên nam hay một vị khách lạ nào đó được mời để ban lời giáo huấn. Nếu một ký lục làm chuyện này thì họ thường dựa vào các chuyên viên giải thích lề luật mà nói. Câu truyện giống như chúng ta hôm nay. Nhưng Chúa Giêsu không làm thế, mà dựa vào thẩm quyền của Ngài, thẩm quyền của lẽ phải và sự thật. Vịêc Ngài xua trừ tà thần ra khỏi người đàn ông chứng minh thầm quyền ấy. Đó là mục tiêu của phép lạ, chứ không phải khoe khoang danh tiếng.

Biến cố trừ quỉ làm ngạc nhiên cộng đồng và khiến buổi Phụng vụ mất hết vẻ trang trọng. Chúng ta có thể tưởng tượng sự lộn xộn lớn trong hội đường. Thần ô uế nhận ra Ngài là Đấng thánh, trong khi thính giả nghĩ Ngài là kẻ mất trí. Tà thần ăn nói trong ngối thứ nhất số nhiều: Ông đến tiêu diệt chúng tôi. Như vậy, dù thính giả không nhận ra, nhưng sự thực Ngài vốn là tôn sư có uy quyền. Chúa nhật tuần trước, chúng ta đã được nghe Chúa Giêsu gọi và chọn bốn tông đồ Simon, Andre, Gia-cô-bê và Gio-an, chẳng bao lâu nữa, Ngài sẽ gọi Lêvi, tức Mattheo. Hẳn những người này cũng kinh ngạc về thẩm quyền của Ngài và quyết chí đi theo. Họ đang học biết Chúa Giêsu là ai và việc theo Ngài gồm những bổn phận nà? Riêng chúng ta thì có phúc hơn, chúng ta biết Ngài và uy quyền của Ngài. Các phép lạ Ngài thực hiện làm cho thiên hạ phải kêu lên ngỡ ngàng. Nhưng thực tế, kiến thức của chúng ta đã đủ thấm thía để theo Chúa như các Tông đồ? Hay chỉ là hời hợt, có thể phản bội bất cứ lúc nào? Vì bất cứ lợi lộc nào nhỏ nhoi đến mấy?

Nói vậy không phải quá đáng mà thực tế. Chúng ta hàng ngày bị các thần ô uế bao vây. Không có tinh thần theo Chúa đích thật thì khó mà chống cự. Theo nghĩa vật chất thì các tiện nghi, các sung sướng xác thịt chút chút chúng ta cũng đòi thoả mãn: thoả mãn cho đến tận điểm. Tinh thần thì càng ghê gớm hơn nữa, cứ như Phúc âm hôm nay, nó xâm nhập vào cả hội đường Do thái. Liệu các nơi thờ phượng của Giáo hội có tránh khỏi ? Tôi thiết nghĩ không đâu. Thời đại khủng bố này, tới đâu cũng bị kiểm soát, nào là quần áo, túi sách, hành lý. Nhưng chẳng ai bị làm khó dễ khi tiến vào Thánh đường, vì nghĩ rằng họ đều là những tâm hồn ngay thẳng, thánh thiện.

Nhưng thực tế không phải vậy. Chúng ta bị nhiều tà thần đè bẹp, thần ích kỷ, thần tham lam, thần kiêu căng, thần dâm ô, thần âm mưu lừa đảo vân vân. Chúng ta cố gắng để sống cuộc đời tốt lành, thì những thần đó dụ dỗ làm những cuộc thoả hiệp, rồi dần dần đưa đến sa đoạ. Nhiều hình thức lôi kéo rất tinh vi, ngay cả đương sự cũng không nhận ra. Nào là làm việc có hiệu quả, nào là giao lưu hiệp thông văn hoá, kiến thức. Thường khi dẫn đến quá mức mà đi vào con đường tội lỗi không kiểm soát được. Tôi nghĩ đến những cuộc bê bối nổi tiếng đã được đưa lên báo chí, phương tiện truyền thông. Còn những vụ kín đáo thì vô số không kể xiết.

Tóm lại có quá nhiều tiếng nói của tà thần trên thế giới hôm nay. Nó bắt nguồn từ Satan, thế gian và xác thịt. Dục vọng đồi bại núp dưới nhiều hình thức, đòi được thoả mãn. Không hy sinh, hãm mình, cầu nguyện, khổ chế đố ai cưỡng lại được, kể cả linh mục, tu sĩ. Chúng ta giống như những người ngồi trong hội đường Do thái, có lẽ còn hơn. Chúng ta cần một ngôn sứ như Môsê dẫn ra khỏi kiếp nô lệ lầm than của dục vọng, tội lỗi. Ngôn sứ đó chính là Đức Giêsu thành Nazareth. Đấng rao giảng chân lý của Thiên Chúa với thẩm quyền, không như những kinh sư nói vẹt. Cứ như Phúc âm, thì thẩm quyền của Chúa Giêsu chính là sự thánh thiện của Ngài. “Tôi biết ông là ai? Là Đấng thánh của Thiên Chúa.” Vậy theo luận lý đó, thẩm quyền nơi các nhà thuyết giảng cũng phát xuất từ đời sống thánh thiện. Kinh nghiệm phổ thông trong lịch sử Giáo hội chứng minh chân lý ấy. Các vị thánh bao giờ giảng dạy cũng có uy quyền. An ở bê tha mà giảng dạy, thì hiệu quả thế nào được? Chẳng qua cũng chỉ vẹt như Pharisêu mà thôi.

Chúng ta không những được chứng kiến các dấu lạ Chúa Giêsu thực hiện để củng cố lời Ngài giảng dậy. Mà còn được tiếp nhận Ngài vào cuộc sống của mình và hướng dẫn lời nói, hành động theo những mạc khải của Ngài. Thiên Chúa đã giữ lời hứa qua Môsê và ban cho chúng ta Đấng rao giảng với uy quyền để dẫn dắt và dậy dỗ chúng ta. Hơn nữa, lời rao giảng của Chúa, khi được chúng ta chấp nhận với đức tin chân thật (chứ không phải giả dối) có khả năng khích lệ và giúp đỡ chúng ta xa lánh những tiếng gọi của thế gian, luôn luôn chát chúa và lôi cuốn đi theo con đường sa đoạ.

Nghĩa là chúng ta sẽ nên thánh và sống cuộc đời của Ngài. Thánh Marcô mô tả Chúa Giêsu như một tôn sư giảng dậy để lật đổ những gì giả dối của thế giới. Ngài không những dậy dỗ bằng lời nói, nhưng cụ thể hoá nội dung các lời giảng dậy bằng cuộc sống và cái chết, đau khổ và lên trời, mang hy vọng cho những kẻ theo Ngài. Chúng ta được kêu gọi cộng tác vào các công việc của Ngài như Phêrô, Gio-an, Gia-cô-bê, Andrê, Lêvi, Phaolô … Tất cả đã rao giảng có hiệu quả nhờ đời sống thánh thiện. Chẳng lẽ chúng ta tài giỏi hơn các đấng với cuộc đời dung dưỡng xác thịt ? Kiếm tìm đủ mọi tiện nghi thế gian ? Khi Chúa Giêsu cất tiếng nói, tà thần rút lui, kêu la thảm thiết. Chúng ta cũng có thể làm được như vậy, thậm chí còn hơn, như có lần Chúa phán.

Thánh Marcô thỉnh thoảng cho thấy những hiệu quả ngoại mục khi Chúa rao giảng. Nhưng trớ trêu thay, chính các thần ô uế lại kêu lên căn cước của Chúa: “Ông là Đấng thánh của Thiên Chúa.” Dĩ nhiên lời hô hoán đó khác với những điều chúng ta ca tụng trong Bí tích Thánh thể. Chúng ta cao rao Danh Thánh Chúa tự thâm tâm chứ không chỉ ngoài môi miệng. Đối với chúng ta khi tung hô Ngài là Đấng thánh của Thiên Chúa, chúng ta công nhận chỉ có Ngài là Đức Chúa, Đấng cứu chuộc, giải phóng và ban cho sức sống mới như Môsê đã hứa.