Lễ Chúa Giáng Sinh - Năm A
MỘT SỰ TRAO ĐỔI KỲ DIỆU
Lm Ignatiô Hồ Thông

Lễ Giáng Sinh được ghi nhận vào thế kỷ thứ tư. Thật ra, các giáo hội Đông Phương đã cử hành Sinh Nhật của Đức Giê-su rồi. Họ tưởng niệm vào ngày mồng 6 tháng giêng, dưới danh xưng lễ “Hiển Linh” vừa biến cố các nhà đạo sĩ đến thờ lạy Hài Nhi vừa biến cố Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy giả, đồng thời tiệc cưới Ca-na, nghĩa là ba biến cố đầu tiên Chúa Giê-su tỏ mình ra công khai. Ấy vậy, cuộc tưởng niệm ba biến cố cùng một lúc này được đi trước bởi đêm canh thức cầu nguyện, suốt đêm đó cuộc Giáng Sinh của Đức Giê-su được gợi lên. Có thể đó là nguồn gốc của lễ Đêm Giáng Sinh của chúng ta.

 Is 9: 2-4, 6-7.

 Bài đọc I là bài thơ tràn đầy hy vọng của ngôn sứ I-sai-a. Tám trăm năm trước đó, vị ngôn sứ hân hoan loan báo cuộc đản sinh của Đấng Cứu Độ.

 Tt 2: 11-14.

 Trong đoạn trích thư gởi cho ông Ti-tô, thánh Phao-lô nhắc nhở cho người môn đệ của mình đồng thời cũng là người bạn đồng hành của mình rằng lòng nhân từ của Thiên Chúa bắt đầu tỏ rạng ở nơi cuộc Giáng Sinh của Đức Giê-su, Ngài là Thiên Chúa vĩ đại và là Cứu Chúa của chúng ta, bởi vì lễ Giáng Sinh đã gieo mầm cho sự huy hoàng vinh quang ngày lễ Phục Sinh.

 Lc 2: 1-14.

 Với hoạt cảnh Giáng Sinh của Đức Giê-su, thánh Lu-ca dẫn chúng ta vào ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Thiên Chúa làm người trong cảnh cơ hàn: “một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”.  
BÀI ĐỌC I (Is 9: 2-4, 6-7)

Ngôn sứ I-sai-a sáng tác bài thơ này không bao lâu sau lời sấm về Đấng Em-ma-nu-en: ông gợi lên những biến cố đã xảy ra vào những năm 734-732 trước Công Nguyên. Ông ca ngợi một trẻ thơ thuộc hoàng tộc Đa-vít sắp chào đời, chắc hẳn trẻ thơ này là “Em-ma-nu-en” (“Thiên Chúa ở cùng chúng ta”) trong lời sấm trước đây của ông (Is 7: 14).

Hoàn cảnh lịch sử vào lúc đó không kém phần nghiêm trọng, nhưng không liên quan đến kinh thành Giê-ru-sa-lem. Phần đầu của bài thơ (không được trích dẫn ở đây) cho thấy đó là miền Ga-li-lê.

Vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe xâm chiếm vương quốc phương Bắc và đã bắt đi lưu đày thành phần dân Ga-li-lê ưu tú đến Át-sua. Quân đội Át-sua có tập quán tàn bạo là móc mắt tù binh. Có lẽ ngôn sứ I-sai-a ám chỉ đến ở đây: “Đoàn người đang lần bước giữa tối tăm…” Dù thế nào, bóng tối biểu tượng nỗi khốn cùng.
1. Miền Ga-li-lê sẽ thấy một ánh sáng huy hoàng (Is 9: 2-4).

Nhưng này một niềm vui vỡ bờ. Đức Chúa giải thoát dân Ngài. Vị ngôn sứ phác họa bức tranh đầy màu sắc tươi vui: niềm tủi nhục thành vinh quang, tối tăm thành ánh sáng, cảnh đời nô lệ thành cuộc sống tự do. Bài thơ sánh ví những giờ phút hân hoan này với niềm hoan hỉ của nông dân trong mùa gặt và của chiến binh khi chia nhau chiến lợi phẩm. Cuối cùng và nhất là không còn dấu vết chiến tranh nữa: những đôi giày chiến và những quân phục nhuốm máu trở thành mồi cho lửa. Thiên hạ sẽ không cần những trang cụ chiến tranh nữa, vì Thiên Chúa can thiệp sẽ đảm bảo một nền hoà bình viên mãn.

Để viện dẫn lý do cho lời sấm của mình, ngôn sứ I-sai-a nêu lên một tiền lệ lịch sử: Đức Chúa đã giải thoát dân Ga-li-lê rồi trong một giai đoạn đau thương khác của lịch sử của họ: khi họ gặp phải những quấy nhiễu của dân Ma-đi-an, Ngài giúp ông Ghít-ôn lập chiến công lẫy lừng đánh bại những kẻ áp bức. 
2. Một trẻ thơ chào đời cho chúng ta (Is 9: 6-7).

Nguyên do của niềm hân hoan và những viễn tượng tràn đầy hy vọng này, chính vì một trẻ thơ chào đời thuộc hoàng tộc Đa-vít.
Phần tiếp theo của bài thơ cho thấy rằng xem ra đây không là một hoàng nhi chào đời nhưng một tân vương lên ngôi. Quả thật, qua những từ ngữ mà vị ngôn sử sử dụng, chúng ta không thể không đọc thấy những ám chỉ đến nghi lễ phong vương. Rõ ràng việc phong vương được xem như một cuộc sinh ra lần thứ hai: ngày vua trở thành Thiên Tử: “Tân vương lên tiếng: Tôi xin đọc sắc phong của Chúa, Người phán bảo tôi rằng:
Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con (Tv 2: 7).

“Người con đó gánh vác quyền bính trên vai”. Người ta nghĩ đến nghi thức choàng áo long bào trên vai của vị tân vương – hay trao cho tân vương một vương trượng (cả hai biểu tượng này đều được chứng thực trong lễ phong vương). Xa hơn, vị ngôn sứ viết: “Nó sẽ là cha đối với cư dân Giê-ru-sa-lem và với nhà Giu-đa. Chìa khoá nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó” (Is 22: 21-22).

“Danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, là Thần Linh dũng mãnh, là Người Cha muôn thuở, là Hoàng Tử Hòa Bình”. Chắc chắn đây là những vương hiệu được ban cho vị tân vương vào ngày tấn phong. Người ta gặp thấy nguyên mẫu tương tự ở Ai-cập.

Quả thật, những danh hiệu tôn kính này là những phẩm tính thần linh, nhằm nhắc nhở rằng “tân vương là thiên tử”. “Cố Vấn kỳ diệu”, “Thần Linh dũng mãnh”, đó là những ân huệ được hứa ban cho một mầm non từ gốc tổ Gie-sê: “thần khí khôn ngoan và minh mẫn”, “thần khí mưu lược và dũng mãnh” (Is 11: 1-10). “Người cha muôn thuở” danh hiệu thường được ban cho vua – vị cha của dân tộc – để cầu chúc vương triều của vua muôn đời bền vững. “Hoàng Tử Hoà Bình”, hoà bình là thiện hảo của thời mê-si-a. Các ngôn sứ tranh nhau tiên báo nền hoà bình này.

Phụng vụ lễ Giáng Sinh áp dụng tất cả những danh hiệu tôn kính này cho Hài Nhi Bê-lem, vì nhận ra ở nơi trẻ thơ này là “Đấng Em-ma-nu-en” đích thật.
3. Lời sấm bí ẩn
Vị ngôn sứ loan báo sự giải thoát của dân Ga-li-lê, niềm hân hoan và ánh sáng bừng lên trên xứ sở của họ (vương quốc phương Bắc). Thật lạ lùng, ông nối kết biến cố này với cuộc chào đời - hay cuộc phong vương – của một hậu duệ nhà Đa-vít ở vương quốc phương Nam, ở Giê-ru-sa-lem. Phải chăng ông hy vọng hai vương quốc được thống nhất dưới vương quyền của vua mê-si-a?

Điều bí ẩn này sẽ gặp thấy lời giải đáp bảy thế kỷ sau. Miền Ga-li-lê rực sáng lên ánh sáng Tin Mừng; Đức Giê-su tự thân là người Ga-li-lê. Nhưng với tư cách là hậu duệ của vua Đa-vít, Ngài sinh ra ở Bê-lem, trong vương quốc phương Nam xưa. Lời loan tin vui của đoàn thiên sứ cho toàn dân (Lc 2: 10) đối đáp với khúc hoan ca của vị ngôn sứ ca ngợi một hoàng nhi ra đời.
BÀI ĐỌC II (Tt 2: 11-14)

Ông Ti-tô là một trong số môn đệ và bạn đồng hành kỳ cựu nhất của thánh Phao-lô. Ông đã cải đạo; song thân ông đều là người Hy lạp. 

Thánh Phao-lô đã trao gởi cho ông các cộng đoàn Ki tô hữu miền Tiểu Á. Vì thế, ông gặp phải những khó khăn nghiêm trọng. Những chống đối đặc biệt đến từ môi trường Do thái, từ Do thái giáo chịu ảnh hưởng Hy lạp này mà chính thánh Phao-lô đã hạm trán ở nơi khác. Vì thế, đối với ông Ti-tô, những lời khuyên của thánh nhân thật là quý báo.

Thật khó xác định niên biểu của bức thư này. Chắc chắn đây là một trong số những bức thư cuối đời của thánh nhân. Nhưng chúng ta không biết chắc là thánh nhân đã chịu hành hình vào năm 63 hay năm 67. Nếu thánh nhân được diễm phúc tử đạo vào năm 67, thì thư gởi cho ông Ti-tô được viết vào năm 65. Lúc đó, thánh nhân có thể đang ở Ma-xê-đoan.
1. Thần tính của Đức Giê-su.

Trong vài hàng, thánh Phao-lô nhắc nhở ông Ti-tô giáo huấn cốt lõi mà ông phải kiên vững truyền đạt: ơn cứu độ Thiên Chúa đã gởi đến cho con người là nhưng không và phổ quát. Thiên Chúa đòi buộc các tín hữu từ bỏ tội lỗi và sống thánh thiện trong khi chờ đợi ngày quang lâm của Đức Ki tô, là “Thiên Chúa vĩ đại, và là Đấng Cứu Độ của chúng ta”.

Việc dùng chữ Thiên Chúa cho Đức Giê-su Ki tô không là cách dùng quen thuộc của thánh Phao-lô. Thánh nhân thường hay dùng chữ “Thiên Chúa” chỉ để chỉ Chúa Cha. Chúng ta gặp thấy một ví dụ duy nhất trước đây trong thư gởi tín hữu Rô-ma: “Người (Đức Ki tô) là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn thuở muôn đời. Amen” (Rm 9: 5b). Dường như những người Do thái giáo bác bỏ Thần Tính của Đức Giê-su Ki tô, một vấn đề mà ông Ti-tô đang phải đương đầu.
2. Lợi ích của bức thư.

Bức thư này không chỉ có lợi ích về phương diện tín lý, nhưng còn về phương diện mục vụ. Quả thật, cùng với hai bức thư gởi cho Ti-mô-thê, bức thư gởi cho Ti-tô được gọi “thư mục vụ”, vì vị sứ đồ cho những huấn lệnh liên quan đến việc tổ chức các cộng đoàn Ki tô hữu. Quả thật, tất cả các Tông Đồ của Đức Giê-su đã qua đời, đến thời của những người được các Tông đồ uỷ quyền (ông Ti-tô là một trong số họ).
Bức thư mục vụ này giúp chúng ta hiểu được giai đoạn chuyển tiếp giữa việc tổ chức đầu tiên, dưới chỉ thị của các “Kỳ Mục”, và việc hình thành cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội. 
TIN MỪNG (Lc 2: 1-14)

Trong số bốn thánh ký Tin Mừng, thánh Lu-ca là thánh ký quan tâm nhiều nhất đến những quy chiếu lịch sử. Ông là vị thánh ký duy nhất giải thích cho chúng ta biết tại sao Đức Giê-su sinh ra ở Bê-lem chứ không ở Na-da-rét. Việc kiểm tra dân số theo chiếu chỉ của hoàng đế Xê-da Âu-gu-tô (năm 30 trước Công Nguyên – năm 14 sau Công Nguyên) được thực hiện trên xứ Palestine theo tập tục Do thái, nghĩa là phải đăng ký ở nơi nguyên quán, chứ không theo cách thức Rô-ma, ở nơi cư ngụ.
Thánh Giu-se trở về Bê-lem vì ông thuộc gia tộc vua Đa-vít. Quả thật, hơn mười thế kỷ trước đó, chính Bê-lem là quê quán của ông Gie-sê, cha của vua Đa-vít. Đối với dân Do thái, kỷ niệm về dòng dõi của mình không bao giờ phai nhạt, nơi chôn nhau cắt rốn vẫn tồn tại trong ký ức của mình. Đó là lý do tại sao việc kiểm tra dân số dưới thời hoàng đế Âu-gu-tô được thực hiện theo tiêu chuẩn truyền thống. Vì thế, thánh Giu-se phải lên đường trở về Bê-lem, nguyên quán của mình.
Tại sao Đức Ma-ri-a theo thánh Giu-se? Phải chăng cô cũng thuộc dòng tộc Đa-vít? Có thể, vì người Do thái thường muốn dựng vợ gả chồng ở trong vòng gia tộc của mình, nhưng không chắc lắm. Thật ra, Đức Ma-ri-a là em họ của bà Ê-li-sa-bét thuộc gia tộc Lê-vi. Người ta gặp thấy cuộc kiểm tra dân số tương tự đã xảy ra ở Ai-cập vào năm 104 sau Công Nguyên và những chứng liệu chứng thực rằng vợ phải trình diện bên cạnh chồng mình.1
 
1. Hoàn cảnh giáng sinh của Đức Giê-su.

“Khi hai ông bà đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ.

Đừng hiểu rằng Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se bị xua đuổi, điều này hoàn toàn trái với phong tục tập quán hiếu khách của người Do thái. Nhưng thật bất tiện đối với một người phụ nữ bụng mang dạ chữa sắp đến ngày mãn nguyệt khai hoa ở nơi đông đúc như vậy. Chỉ nghĩ đến những lữ quán Đông Phương, ở đó người, vật và hàng hoá chen nhau trong sân. Có thể có các phòng trọ nhưng tiền thuê rất đắc, chỉ dành cho những người giàu.
2. Hai dấu chỉ cùng lúc.
Đức Giê-su chào đời ở Bê-lem, có nghĩa là “nhà của bánh”. Đó không phải là tên tiền định sao? Thiên Chúa bằng lòng đón nhận thân phận làm người của chúng ta. Ngài còn đi xa hơn trong sự tự hạ: trút bỏ quyền lực và vinh quang của mình, vì tình yêu Ngài làm cho mình trở thành một mẫu bánh.

Ngoài ra, chiếc nôi đầu đời của Ấu Chúa là một “máng cỏ”. Thánh Lu-ca nhấn mạnh sự kiện này đến ba lần (hai lần trong đoạn văn trích này, và một lần khác nữa xa hơn). Đây cũng là dấu hiệu mà các sứ thần cho các mục đồng để nhận ra Ngài. Điểm nhấn này chắc hẳn có chủ ý. Với điểm nhấn này, thánh ký có thể đã hiểu lời tiên báo về số phận của hài nhi này, Đấng sẽ dâng hiến thân mình khi nói: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, vì này là Mình Thầy”.
3. Con trai đầu lòng.
“Đức Ma-ri-a sinh con trai đầu lòng”. Diễn ngữ là thuật ngữ pháp lý; nó không bao hàm rằng Đức Ma-ri-a còn có những người con khác. “Anh em của Đức Giê-su” mà các thánh ký nói đến là anh em họ của Đức Giê-su. Trong Cựu Ước, chữ “anh em” có một phạm vi ngữ nghĩa rất rộng. Ngôn ngữ Do thái không có đặc ngữ để chỉ “anh em họ”. Vả lại, “anh em của Đức Giê-su” có những bà mẹ khác nhau (cf. Mt 27: 56; Mc 15: 40-41; Ga 19: 45). Giáo Hội luôn luôn công bố Đức Ma-ri-a trọn đời đồng trinh.

“Con trai đầu lòng” phải chịu nhiều quy định của Lề Luật: phải được thánh hiến và dâng hiến cho Thiên Chúa nhờ hy lễ “chuộc lại” như trường hợp của Đức Giê-su với “một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non” (của lễ của con nhà nghèo).

Diễn ngữ “con đầu lòng” được lấy lại trong những viễn cảnh Ki tô giáo: Đức Giê-su là Trưởng Tử của một cuộc sáng tạo mới; Trưởng Tử của các vong nhân; mầu nhiệm Nhập Thể của Ngài thật sự mang ơn cứu độ đến cho nhân loại: “người anh cả của một đàn em đông đúc”, như lời của thánh Phao-lô.
4. “Đức Ma-ri-a lấy tả bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ”.
Đấng Tạo Hóa hóa thân thành thân phận yếu hèn và phụ thuộc của một hài nhi bé bỏng. Ngôi Lời Thiên Chúa, Lời Quyền Năng tự mình trở nên “một trẻ sơ sinh không nói được”. Thiên Chúa Hằng Sống giáng trần và chấp nhận tiến trình lớn lên như bao con người khác.

Ba mươi năm sau đó, Đấng ấy sẽ cất cao giáo huấn của mình: “Ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời” (Mt 18: 4); “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì nước trời là của những ai giống như chúng” (Mt 19: 13-15). Trong Tin Mừng, có một con đường thánh thiện bằng cách trở nên trẻ thơ, và con đường này bắt nguồn từ Hài Nhi Bê-lem.
5. Thiên Chúa nghèo khó.
Cũng chính Hài Nhi Máng Cỏ này một ngày kia sẽ nói về cảnh đời của mình: “Chim có tổ, chồn có hang, nhưng Con Người không có nơi gối đầu qua đêm”.

Thế nên, không ai gợi lên nhiều mâu thuẫn ở nơi chính mình cho bằng Đức Giê-su này, Ngài sinh ra như một kẻ đầu đường xó chợ khốn cùng nhất trong số những kẻ vô gia cư và chết như một tên tội phạm nguy hiểm nhất trong số các tên tội phạm.

René Habachi sử dụng khái niệm triết học để diễn tả mầu nhiệm mâu thuẫn này: Thiên Chúa là “Cái Là” (l’Ētre: Hữu Thể), “Cái Là tuyệt đối”, vì thế Ngài không cần “Cái Có” (Avoir), vì ở nơi Ngài “Cái Có” bị tiêu tan bởi “Cái Là”. Cũng một cách nào đó như vậy “cái nghèo vô tận của Thiên Chúa, cái không có tận cùng của Thiên Chúa, là dấu chỉ Thần Tính của Ngài”.2

Jacques Loew trong tác phẩm “Như thấy Đấng Vô Hình” đã cho chúng ta một bài suy niệm sâu sắc về mầu nhiệm Giáng Sinh theo cùng một cách này: “Chúa Giê-su đã sinh ra bé nhỏ và nghèo hèn chắc là để biểu lộ tình thương của Ngài đối với những bé nhỏ và nghèo hèn trong thế giới cho tới tận thế; nhưng thật ra cuộc đản sinh khiêm tốn của Ngài còn có ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Chẳng có gì xứng đáng cho Chúa cả; chẳng có gì cao trọng đủ để mà tiếp rước Ngài, cù có trang hoàng mỹ lệ, dù có cung điện lộng lẫy, dù loài người có khôn ngoan. Vì thế Thiên Chúa chọn một nơi không gì hết là vì ở đó không có sự cạnh tranh lố bịch, không có vẻ giàu sang giả tạo. Chúa chỉ ngự đến nơi nào mà ở đó Ngài là tất cả: ở Máng cỏ, trong cảnh nghèo nàn thực sự, nơi mà Đức Ma-ri-a, một tâm hồn khó nghèo” (bản dịch của Lưu Tấn, trang 16-17).
6. Mục đồng.
“Trong vùng ấy, có những người chăn chiên thức đêm ngoài trời, canh giữ đàn vật”. Đó là lý do tại sao chuồng chiên thì trống: đàn vật ở bên ngoài và những người chăn chiên ngủ ngoài trời. Ở xứ Palestine, giữa lễ Vượt Qua và mùa thu, thời tiết rất đẹp. Đức Giê-su không sinh ra vào ngày 25 tháng 12. Việc chọn niên biểu này để tưởng niệm ngày chào đời của Ngài đã đề cao ý nghĩa biểu tượng: đông chí đã qua; ánh sáng chiến thắng bóng tối.

Những người đầu tiên được loan tin mừng Giáng Sinh là những người chăn chiên, nghĩa là những người tầm thường, thường vô học, được liệt vào hạng đàn bà, trẻ con và nô lệ. Đức Giê-su tự đặt mình vào số những người nghèo, khiêm hạ và bé nhỏ.

Những người chăn chiên đến vây quanh Hài Nhi, thờ lạy Ngài: Đức Giê-su đến “để chăn dắt dân Ngài”. Ngài là Mục Tử đích thật, Mục Tử nhân lành (Ga 10: 11-15).

Sau cùng việc Đức Giê-su sinh hạ ở giữa những người chăn chiên Bê-lem là “dấu chỉ Đa-vít” tuyệt vời. Ngài sinh ra ở những nơi mà cậu bé Đa-vít đã canh giữ đàn chiên. Ngài là Đa-vít mới.

7. Thiên sứ.

Bản hợp xướng của các thiên sứ là một dấu chỉ khác: dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Triều đình thiên giới đã dời chỗ vì Hài Nhi Máng Cỏ không ai khác hơn là Thiên Chúa đích thân.

Các thiên sứ loan báo “một tin vui trọng đại cho toàn dân”. Thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng nhạy bén nhất trước bầu khí vui tươi mà biến cố Nhập Thể đem đến. Niềm vui này là niềm vui mê-si-a mà các ngôn sứ biết bao lần đã loan báo (ví dụ như bài đọc I), khúc dạo đầu cho niềm vui viên mãn của cõi đời đời.

Sứ điệp các thiên sứ gởi đến thật vĩ đại, những từ ngữ thật cảm động: “Đấng Cứu Độ”, “thành vua Đa-vít”, “Đấng Ki tô (Mê-si-a)”, “Đức Chúa”. Thật tương phản biết bao với lời kết thúc thật khiêm tốn  này: “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”. Tương phản  này tiền trưng một tương phản khác: bên máng cỏ  này được bao quanh bởi ánh sáng và lời hoan ca, ẩn hiện một bóng tối, bóng tối của núi Sọ; vì Ngôi Lời hóa thành nhục thể, không phải để nhục thể  này một ngày kia bị tra tấn, bị nhục mạ, bị đóng đinh vào thập giá sao?

Bài ca của các thiên sứ: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho loài người Chúa yêu”, có thể được mượn ở một bài thánh thi phụng vụ Do thái. Lời hoan hô chúc tụng của đám đông vào lúc Đức Giê-su khải hoàn vào thành thánh Giê-ru-sa-lem trích dẫn cùng những lời như vậy: “Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời” (Lc 19: 38).
8. Một sự trao đổi kỳ diệu.

Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người vừa mặc khải về Thiên Chúa vừa mặc khải về con người. Trong một cuộc yết kiến của thứ tư ngày 28 tháng 12 năm 1977, Đức Thánh Cha Phao-lô VI nói: “Trong nội dung thần linh của nó, mặc khải của lễ Giáng Sinh thì vô giới hạn”. Trong nội dung con người của nó, mặc khải làm chứng về sự cao cả của con người. Con người đã được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa;  này đây chính Thiên Chúa mặc lấy dung mạo con người. Kinh Tiền Tụng Giáng Sinh III nói về cuộc trao đổi kỳ diệu: “Vì khi Ngôi Lời của Chúa mặc lấy thân phận mỏng giòn của chúng con, thì loài người phải chết, không những được hưởng vinh dự vĩnh cửu mà nhờ việc tham dự kỳ diệu ấy, Chúa còn cho chúng con được sống muôn đời.”